Bát cơm hành hóa sa môn Đâu phân thành thị, thôn lân, sang hèn |
Vào mùa an cư thứ 12 của Đức Phật, Ngài và chúng Tỳ kheo đã an cư tại xứ Verañjā theo lời thỉnh mời của ông Bàlamôn Verañja.
Theo kinh điển ghi lại: lúc ấy, đức thế tôn đang ngự dưới cội cây Nimba của dạ xoa Naḷeru cùng với đại chúng Tỳ kheo năm trăm vị thì ông Bàlamôn Verañja đi đến đảnh lễ hầu phật và bạch hỏi vài vấn đề thắc mắc của mình. Đức phật đã giải đáp những thắc mắc ấy, Bàlamôn Verañja phát tâm hoan hỷ xin quy y tam bảo và thỉnh cầu đức phật cùng với chúng tỳ kheo ở lại an cư ba tháng mùa mưa tại đây.
Ngài Gotama là vị đứng đầu, ngài Gotama là người cao cả nhất. Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch ngài Gotama, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Tôi đây xin quy y ngài Gotama, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ kheo. Xin ngài Gotama chấp nhận tôi là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về việc cư trú mùa mưa ở Verañjā cùng với hội chúng tỳ kheo.[1]
Trong lúc ấy, xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dịch bệnh hoành hành, dân chúng bị chết đói rất đông, bởi vì, thiếu thốn vật thực, cho nên chư Tỳ kheo đi khất thực không được vật thực. Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư Tỳ kheo đi khất thực, nhưng không được gì, nên họ làm phước bố thí cúng dường lúa mạch là phần vật thực để nuôi ngựa, giã thành gạo đỏ đem nấu cơm, mỗi ngày dâng cúng dường đến Đức Phật cùng chư Tỳ kheo. Đại đức Ānanda đã dâng đến đức phật phần vật thực này để ngài thọ dụng. Trong 3 tháng an cư nhập hạ đó, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ kheo Tăng phải chịu cảnh độ cơm nấu bằng gạo đỏ.
Đây là một trong những quả nghiệp bất thiện còn dư sót của Đức Phật mà Ngài đã tạo trong kiếp quá khứ và ảnh hưởng chung đến chúng Tỳ kheo. Câu chuyện quá khứ kể lại như sau:
Vào thời Giáo Pháp của Đức Phật Phussa, đức bồ tát sanh làm người giai cấp hạ tiện, là kẻ si mê nên đã mắng chửi các vị Tỳ kheo Thinh văn đệ tử của Đức Thế Tôn Phussa rằng: “Các ngươi hãy ăn, hãy nhai lúa mạch, chớ có ăn cơm gạo Sāli”
‘‘Phussassāhaṃ pāvacane, sāvake paribhāsayiṃ;
Yavaṃ khādatha bhuñjatha, mā ca bhuñjatha sālayo.
‘‘Tena kammavipākena, temāsaṃ khāditaṃ yavaṃ;
Nimantito brāhmaṇena, verañjāyaṃ vasiṃ tadā’’.[2]
Và trong mùa an cư này, Tôn giả Sāriputta bạch hỏi Đức Phật về thọ mạng của Giáo Pháp. Thế Tôn đã giảng cho Tôn giả nghe về thọ mạng của Giáo Pháp trong thời các vị Phật quá khứ. Tôn giả bạch xin Phật ban hành giới luật để giáo pháp được tồn tại lâu dài nhưng đức phật đã khước từ lời thỉnh cầu.
- Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp ấy, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm. Này Sāriputta, cho đến khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này thì cho đến khi ấy bậc Đạo Sư chưa quy định điều học và công bố giới bổ ệ tử. [3]
Sau khi hoàn mãn ba tháng an cư mùa mưa, Đức Phật và Tăng chúng đã tiếp tục du phương hoằng đạo đến Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja, Payāga, và qua sông, ghé lại ít lâu tại Bārānasi và từ đó trở về Vesāli ngự tại đồi Tháp trong Mahāvana.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét