Gieo trồng mảnh đất tâm linh Cho hoa thắm nở vô sinh lối về |
Đức Phật đã ngự đến ngôi làng Ekanāḷā, trong Dakkhināgiri, một ngôi làng theo Bà-la-môn giáo gần xứ Magadha. Ngài ngựđến đây để thuyết pháp tiếp độcho ông Bà-la-môn Kasibhāradvāja bằng thời pháp với đề tài “cách làm ruộng của Đức Phật”. Sau đó ông xuất gia trởthành vị Tỳ khưu Phật Giáo và chứng đắc được Thánh quả A-la-hán.
Kinh tập (Suttanipāta) ghi lại câu chuyện như sau:[1]
Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Magadha, tại núi Dakkhināgiri, trong một làng Bà-la-môn tên Ekanāḷā. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kasibhāradvāja có khoảng năm trăm lưỡi cày sẵn sàng, vì là thời gieo mạ. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến chỗBà-la-môn Kasibhāradvāja đang làm việc. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kasibhāradvāja đang phân phát đồ ăn. Rồi Thế Tôn đi đến chỗphân phát đồ ăn, sau khi đến, Ngài đứng một bên, Bà-la-môn Kasibhāradvāja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để khất thực, liền nói với Thế Tôn:
- Này Sa-môn, ta cày và ta gieo, sau khi cày, sau khi gieo, ta ăn. Và Sa-môn, hãy cày và gieo. Sau khi cày và gieo, hãy ăn!
- Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và cũng gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn.
- Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, hay cái cày, hay lưỡi cày, hay gậy thúc trâu bò, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Vậy mà Tôn giả Gotama nói: "Này Bà-la-môn, Ta có cày và Ta có gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn ".
Rồi Bà-la-môn Kasibhāradvāja nói lên với Thế Tôn bài kệ:
Kasibhāradvāja:
Người tự nhận Người cày,
Ta không thấy Người cày,
Hãy trả lời chúng tôi,
Ðã hỏi về Người cày,
Chúng tôi muốn rõ biết,
Người cày như thế nào?
Thế Tôn:
77. Lòng tin là hột giống,
Khổ hạnh là cơn mưa,
Trí tuệđối với Ta
Là ách và lưỡi cày,
Xấu hổ là cán cày,
Ý là sợi dây buộc,
Và niệm đối với Ta
Là lưỡi cày, gậy thúc.
78. Với thân khéo phòng hộ,
Với lời khéo phòng hộ,
Với món ăn trong bụng,
Biết tiết độ, chế ngự,
Ta tác thành chơn thực,
Ðể cắt dọn cỏ rác,
Sự giải thoát của Ta
Thật hiền lành nhu thuận.
79. Với tinh cần tinh tấn,
Ta gánh chịu trách nhiệm,
Ta tự mình đem lại
An ổn khỏi khổ ách.
Như vậy, Ta đi tới,
Không trở ngại thối lui,
Chỗ nào Ta đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn.
80. Cày bừa là nhưvậy,
Ðược quả là bất tử,
Sau cày bừa nhưvậy,
Mọi khổ được giải thoát.
Rồi Bà-la-môn Kasibhāradvāja lấy một bát bằng đồng lớn, cho đổ đầy với cháo sữa dâng đức Phật và thưa:
- Thưa Tôn giả Gotama, hãy dùng cháo sữa, Tôn giả là người đi cày! Tôn giả Gotama đi cày quảbất tử!
Thế Tôn:
81. Ta không hưởng vật dụng,
Do tụng kệ đem lại,
Ðây không phải là pháp,
Của bậc có chánh kiến
Chư Phật đều bác bỏ,
Tụng hát các bài kệ,
Khi pháp có hiện hữu,
Truyền thống là như vậy.
82. Hỡi này Bà-la-môn,
Người cần phải cúng dường,
Ðồ ăn vật uống khác,
Bậc đại sĩ toàn diện,
Ðã đoạn các lậu hoặc,
Ðã lắng dịu dao động,
Ta chính là thửa ruộng,
Cho những ai cầu phước.
- Vậy, thưa Tôn giả Gotama, con sẽ cho ai cháo sữa này?
- Này Bà-la-môn, Ta không thấy ai ở thế giới, với chư Thiên, chưMa, chư Phạm thiên, hay trên đời này với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, có thể sau khi ăn, tiêu hóa được món cháo sữa này, trừ NhưLai hay đệ tử của Như Lai. Vậy, này Bà-la-môn, Ông hãy đổcháo sữa này trên chỗ không có cỏxanh, hay nhận chìm trong nước không có sinh vật.
Rồi Bà-la-môn Kasibhāradvāja đem nhận chìm cháo sữa ấy vào nước không có sinh vật. Cháo sữa ấy khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Ví nhưmột lưỡi cày, phơi cảngày dưới ánh nắng, được đem quăng xuống nước, lưỡi cày ấy sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Cũng vậy, cháo sữa ấy, khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Rồi Bà-la-môn Kasibhāradvāja hoảng hốt, rợn tóc gáy, đi đến ThếTôn, sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch ThếTôn:
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Ví như, thưa Tôn giả Gotama, một người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, mởtoang ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thểthấy sắc. Cũng vậy, pháp được Tôn giảGotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con xin qui y Tôn giả Gotama, qui y Pháp, qui y chúng Tỷ-kheo. Mong rằng con được xuất gia với Tôn giả Gotama, được thọđại giới.
Rồi Bà-la-môn Kasibhāradvāja được xuất gia với Sa-môn Gotama, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Bhàradvàjasống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Không bao lâu, do vì mục đích gì, bậc thiên nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú cứu cánh Phạm hạnh ấy. Vị ấy thắng tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa ".Tôn giả Kasibhāradvāja trở thành một vị A-la-hán.
[1] Sn 12 – Tiểu Bộ Kinh 1, Kinh Tập, Chương 1, Phẩm Rắn Uragavagga, Kinh Bhāradvāja Người Cày Ruộng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét