Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

GIAO TIẾP VỚI ĐỜI


Lời nói thật lòng cũng giống như một chén thuốc đắng làm người ta phải đắng lòng khi nghe, thậm chí có thể gọi là đau lòng nữa là khác. Trong cuộc sống, vì chúng ta thích nghe những lời nói có cánh, những lời nói khen bằng niềm tin làm chúng ta như một đứa bé bị ru ngủ, nhưng nếu nghe những lời nói thiệt lòng thì lại khó mà chấp nhận được. Đó là chuyện của những kẻ tầm thường chỉ thích nghe những lời khen giả dối.
Còn đối với Đức Phật, Ngài xuất hiện trên thế gian này "vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì an lạc cho loài trời và loài người"[1]. Trong suốt 45 năm truyền đạo khắp nơi khắp lưu vực sông Hằng, Ngài đã gặp gỡ, tiếp xúc và thuyết Pháp với nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội, đủ mọi loại người từ vua quan đến kẻ thường dân, từ người quét rác đến nàng kỹ nữ; vậy mà sau khi nghe được thời thuyết Pháp của Ngài, mọi người đều có chung một cảm nhận và ca tụng Ngài "như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc[2].
Là một vị Tu sĩ Phật giáo, không cần phải là một vị Pháp sư lỗi lạc, bất cứ vị nào cũng có trách nhiệm truyền thừa Phật Pháp và giảng dạy lại cho những người tại gia cư sĩ. Là một người đi theo con đường của Ngài, thì chúng ta phải làm theo Ngài, nói theo Ngài và nghĩ theo Ngài với chí nguyện đem Phật Pháp vào đời, phá tan màn vô minh mê tối.
Hãy đứng dậy, lên đường,
Hãy dấn thân Phật giáo,
Hãy đánh bại ma quân,
Như voi phá chòi lá.
Ai trong Pháp Luật này,
An trú không phóng dật,
Ðoạn tận vòng sống chết,
Sẽ chấm dứt khổ đau. [3]
Một cư sĩ tại gia cũng như thế, là người có niềm tin nơi Tam Bảo, chấp nhận và tình nguyện thực hành theo lời Phật dạy, người cư sĩ còn là một người truyền giáo tích cực để đem ánh sáng Phật Pháp đến gần với cuộc sống. Và chính lời nói là một phương pháp giao tiếp hữu hiệu nhất để chúng ta thực hiện nhiệm vụ này. Để giao tiếp với cuộc đời một cách hiệu quả nhất, đem đến lợi ích thiết thực nhất chúng ta cần áp dụng theo năm nguyên tắc khi nói, đó là nói "đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyễn hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm".[4]
1. Nói đúng thời hay phi thời.
Thời gian và không gian là những yếu tố quan trọng trong việc giao tiếp. Có những lời nói thể hiện ở lúc này, nơi này thì phù hợp nhưng sẽ phản tác dụng và đôi khi gây ra những sự nguy hại nếu như xuất hiện ở thời điểm khác, trong hoàn cảnh khác.  
Đức Phật luôn nói đúng thời điểm. Cùng là một mục đích, nhưng tùy vào duyên nghiệp của đối tượng, tùy vào bối cảnh và thời gian mà Đức Phật có những cách triển khai chân lý khác nhau. Đức Phật đã tùy vào tâm trạng, thời điểm của mỗi người để có những bài thuyết giảng khác nhau như việc tiếp độ nàng Paṭacārā[5], nàng Kisāgotamī[6], tướng cướp khét tiếng Aṅgulimāla[7] hoặc để thu phục dạ-xoa Āḷavaka[8] và còn rất nhiều trường hợp khác. Xem ra, khi lựa chọn thời điểm phù hợp, trong một không gian phù hợp, sẽ tạo nên những điều kiện tối ưu cho việc chuyển tải thông điệp từ người nói đến với người nghe. Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng trong mọi mối quan hệ giao tiếp giữa người với người.
 2. Nói chơn thực hay không chơn thực.
Giao tiếp nhằm truyền đạt thông tin cho người. Với Phật giáo, tính xác thực của thông tin là điều bắt buộc trong nguyên tắc giao tiếp. "các bậc thế tôn không bao giờ nói lời hư vọng"[9]. Đó là sự khẳng định rõ ràng nguyên tắc nói đúng sự thật trong giao tiếp. Hơn thế nữa, "Thế Tôn nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy. Một vị đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn"[10].
Thông thường trong giao tiếp, vì nhiều lý do khác nhau như vì sợ hãi, vì nguy hiểm, vì danh dự, vì lợi dưỡng, vì tế nhị, vì đùa chơi… nên đôi khi người ta không nói đúng sự thật, và đây là một trong những thói quen xấu của con người nói chung. Trong một vài trường hợp đặc biệt, việc nói dối không nhằm vào bất cứ mục đích gì cả, mà chỉ vì thói quen nói dối đã trở thành thường cận, khó bỏ. Để ngăn ngừa tập khí không tốt đó, Đức Phật đã dạy cho người con trai của mình: "Cũng vậy, này Rāhula, đối với ai biết mà nói láo, không có tàm quý, thời ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm. Do vậy, này rāhula, ta quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi". [11]
Đức Phật đã cẩn trọng khuyến hóa: "Dầu cho vì một bình bát vàng đựng đầy phấn bạch ngân, vị này cũng không cố ý nói láo... Dầu cho vì một bình bát bạc đựng đầy phấn vàng, vị này cũng không có cố ý nói láo."[12]
Đạo Phật là đạo như thật và tôn trọng sự thật, vì sự thật chính là chân lý, việc nói đúng sự thật góp phần tạo nên một sự tin tưởng lẫn nhau ở tất cả mọi người. Và khi con người sống trong sự tin tưởng lẫn nhau, thì đó là dấu hiệu của một đời sống hạnh phúc thực sự.
Trên phương diện xuất thế, với những bậc có tâm hành vĩ đại, việc tôn trọng sự thật trong phương thức giao tiếp đã được tuân thủ một cách tuyệt đối, cho dù nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng: "Dầu ai là kẻ thù của ta. Ðối với họ, ta không có gian trá"[13]. Trên bước đường của một người học Phật, trong giao tiếp cần phải thực hiện theo phương châm: "không thấy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không cảm giác nói không có cảm giác, không thức tri nói không có thức tri... Thấy nói có thấy, nghe nói có nghe, có cảm giác nói có cảm giác, có thức tri nói có thức tri"[14]. Đây là nguyên tắc nói đúng sự thật cần phải tuân thủ khi giao tiếp với người.
3. Nói có lợi ích hay không lợi ích.
Lợi ích ở đây chính là lợi ích cho người nghe, liên hệ đến người nghe, vì người nghe mà nói. Dù ở quá khứ, hiện tại hay vị lai, những Pháp nào liên hệ sự chân thực và lợi ích, như lai sẽ nói. "Này Cunda, nếu những gì thuộc hiện tại là hư vọng, không thật, không lợi ích, Như Lai không trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc hiện tại và chơn chánh, như thật, nhưng không lợi ích, Như Lai cũng không trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc hiện tại là chơn chánh, như thật, có lợi ích, Như Lai biết thời trả lời câu hỏi ấy. Như vậy, này Cunda, đối với các Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, Như Lai là vị nói phải thời nói chơn chánh, nói như thật, nói có lợi ích, nói đúng Pháp, nói đúng luật. Do vậy mới gọi là Như Lai".[15] Có thể xem tôn chỉ vì lợi ích người nghe mà nói là một dấu hiệu đặc thù trong ngôn ngữ giao tiếp của Phật giáo.
Ở đây, trong giao tiếp thường tình, đôi khi người ta muốn nói cho sướng miệng, nói cho vơi đi sự bực bội trong lòng, nói với sự huênh hoang khoác lác, nói nhằm thỏa mãn tự ngã cá nhân… mà không chú ý đến thái độ của người nghe và những người không muốn nghe. Điều này ta có thể bắt gặp trong giao tế đời thường, trong những cuộc vui gặp mặt, trong những buổi diễn thuyết và thậm chí ngay cả trong những giảng đường, lớp học. Cần phải thấy rằng, một khi nội dung buổi nói chuyện không liên hệ đến lợi ích của thính chúng thì sẽ tạo nên một sự uể oải, rã rời cho cả người nói lẫn người nghe. Xét trên phương diện hiệu quả, đó là những kiểu nói không liên hệ đến lợi ích của người nghe.
 4. Nói nhu nhuyễn hay thô bạo.
Cùng biểu đạt một sự kiện, con người có thể vận dụng nhiều cách thức truyền đạt khác nhau. Có những cách nói dễ dàng đi vào lòng người nhưng đồng thời cũng có những cách nói làm cho người nghe bực bội, khó chịu. Một người khéo léo trong giao tiếp theo quy chuẩn Phật giáo thì trong ngôn hành, "vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tại, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ bỏ nói phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh Pháp, nói những lời về luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi"[16]. Trong bốn phương Pháp nhiếp phục nhân tâm[17], thu phục lòng người thì lời nói nhẹ nhàng, dễ nghe, nhu nhuyến, ái ngữ đóng một vai trò quan trọng. Ngay như các con vật nuôi trong nhà, ở một chừng mực nào đó cũng cảm nhận được những lời nói nhẹ nhàng, dễ nghe. Khi nói lời dễ nghe, nội dung thông tin được chuyển đến người nghe gần như trọn vẹn.
Trong liên hệ đời sống, với những va chạm từ nhiều phía, mà vẫn giữ được phong vị từ hòa trong ngôn ngữ, là dấu hiệu chứng tỏ cho một sự vững chãi, trưởng thành của một con người. Điều này, không phải ai cũng thực hiện được, thậm chí ngay cả người xuất gia. Cho nên kinh văn đã khẳng định: "khi nào tỳ kheo bị những lời nói bất khả ý, xúc phạm mà vị ấy vẫn hết sức hiền lành, hết sức nhu thuận, hết sức ôn hòa, khi ấy vị ấy mới được xem là hiền lành, mới được xem là nhu thuận, mới được xem là ôn hòa"[18]. Sự khẳng định đó một lần nữa cho thấy rằng, cần phải giám sát ngôn hành thật kỹ lưỡng trong mọi liên hệ va chạm với thực tế đời sống, mới có thể thực hiện được trọn vẹn hạnh nói lời nhu hòa.
5. Nói với từ tâm hay với sân tâm.
Nền tảng của đạo Phật được xây dựng trên hai nền tảng, đó là trí tuệ và tâm từ. Tất cả mọi Pháp hành của Phật giáo về cơ bản đều quy hướng về hai nền tảng này. Ở đây, tâm từ là tình thương yêu không hạn lượng và giao tiếp với tâm từ mẫn là sự biểu hiện sinh động cho lòng từ.
Trên phương diện tự thân, lời nói có một sức mạnh nội tại, gắn kết với tâm lực và toan tính của người nói. Lời tuyên bố hùng hồn của nhà luận chiến Nigaṇṭhaputta Saccaka được ghi lại trong Kinh Trung Bộ không hẳn là lời khoác lác, nói đùa: "Ta không thấy một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào, là vị hội chủ, là vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, dầu tự cho là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, khi đối thoại với ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ, không khiếp sợ, không ai là không toát mồ hôi nách. Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người thường"[19]. Tuy nhiên, khi diện kiến Đức Phật, với ngôn ngữ từ hòa và cách thức trình bày khéo léo, Đức Phật đã thuận thứ thuyết giảng, khiến cho Nigaṇṭhaputta Saccaka quy phục và dâng lời sám hối: "" 
Hình ảnh một người dù bị kẻ đạo tặc dùng cưa cưa tay, chân nhưng vẫn không thốt lên một lời ác ngữ và vẫn giữ được nội tâm bình ổn, từ hòa là điều được Đức Phật tán thán trong Kinh Ví Dụ Cái Cưa. Có thể đó chỉ là ẩn dụ lý tưởng, về sự kham nhẫn và giám sát ngôn hành của bậc thánh, nhưng qua đó có thể thấy được, nói với từ tâm là phương Pháp giao tiếp cần được vận dụng, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Giao tiếp là nhu cầu căn bản của con người, nhằm duy trì hoạt động sống ở nghĩa rộng nhất, được thể hiện qua sự trao đổi thông tin giữa người với người. Giao tiếp không chỉ giới hạn trong lời nói, ngôn ngữ, chữ viết, mà còn thể hiện dưới những dạng thức khác nhau như ánh mắt, hình ảnh, âm thanh… bởi thế, trong khi giao tiếp với cuộc đời, phải cẩn thận, phải biết suy nghĩ trước khi giao tiếp để đem đến niềm an lạc cho chính mình và cho những người nghe cả thảy.
Đừng vì một phút bốc đồng "giận quá mất khôn" mà mình phát ngôn ra những lời nói khó nghe. Ngôn ngữ nói xuất phát từ nghiệp khẩu, là một trong ba nơi tạo nghiệp. Nghiệp xấu hay nghiệp tốt đều do chính chúng ta tạo ra và hưởng lấy.
Phàm con người đã sanh,
Sanh với búa trong miệng,
Kẻ ngu khi nói bậy,
Tự chặt đứt lấy thân.
Ai khen kẻ làm bậy,
Ai chê người làm hay,
Tự nhen nhúm bất hạnh,
Do chính miệng của mình;
Chính do bất hạnh ấy,
Nên không được an lạc.[21]
Nói tóm lại, cuộc đời là một bài học lớn, một ngôi trường mà chúng ta học mãi cũng khó mà tốt nghiệp được. Chính trong ngôi trường này, chúng ta sẽ phải tiếp xúc, ngoại giao, đụng chạm, xúc chạm với rất nhiều bài học. Tự mình phải giải quyết bài học để tự mình khắc phục, gom góp được kinh nghiệm hữu ích trong khi mình giao tiếp với cuộc đời. Khôn ngoan không phải là mình đã được học vị như thế nào, mình có tiền cao ngất ra sao mà mình phải thấu hiểu lời mình nói và đặc biệt nữa là mình phải biết chấp nhận những lời nói "không có cánh"...




[1]Trường Bộ Kinh 2. Kinh Đại Điền-Tôn.
[2]Trung Bộ Kinh 2. Kinh Vương Tử Vô Úy.
[3]Tương Ưng Bộ Kinh 1. Tương Ưng Phạm Thiên. Phẩm Thứ Hai. Kinh Aruṇavatī.
[4]Trung Bộ Kinh 1. Kinh Ví Dụ Cái Cưa.
[5]Dhammapada-Aṭṭhakathā 113.
[6]Dhammapada-Aṭṭhakathā 114.
[7]Trung Bộ Kinh 2, Kinh Aṅgulimāla.
[8]Tương Ưng Bộ kinh 1, Chương 10 – Tương Ưng Dạ Xoa, Kinh Āḷava.
[9]Trường Bộ Kinh 1. Kinh Đại Bát Níp-Bàn.
[10]Trường Bộ Kinh 2. Kinh Đại Điển Tôn.
[11]Trung Bộ Kinh 2. Kinh Giáo Giới Rāhula Ở Rừng Ambalaṭṭhikā.
[12]Tương Ưng Bộ Kinh 2. Tương Ưng Lợi Đắc Cung Kính. Phẩm Thứ Hai. Kinh Bình Bát.
[13]Tương Ưng Bộ Kinh 1. Tương Ưng Sakka. Phẩm Thứ Nhất. Kinh Không Gian Trá.
[14]Tăng Chi Bộ Kinh 2. Chương Bốn Pháp. Phẩm Sợ Hãi Phạm Tội. Kinh Cách Thức Nói.
[15]Trường Bộ Kinh 2. Kinh Thanh Tịnh.
[16]Trung Bộ Kinh 1. Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi.
[17]Tăng Chi Bộ Kinh 2, Chương Bốn Pháp, Phẩm Thắng Trí, Kinh Nhiếp Pháp.
[18]Trung Bộ Kinh 1. Kinh Ví Dụ Cái Cưa.
[19]Trung Bộ Kinh 1. Tiểu Kinh Saccaka.
[20]Trung Bộ Kinh 1. Tiểu Kinh Saccaka.
[21]Tương Ưng Bộ Kinh 1. Tương Ưng Phạm Thiên. Phẩm Thứ Nhất. Kinh Turūbrahma.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét