Thứ Hai, 26 tháng 11, 2012
Lễ hội hoa đăng Thái Lan Loy Krathong
Lễ hội hoa đăng Loy Krathong vào tháng 11 là một trong những lễ hội cổ xưa, màu sắc nhất Thái Lan.
Lễ hội hoa đăng Thái Lan là một lễ hội truyền thống, có từ rất lâu đời được bắt nguồn từ đất nước Thái Lan. Hàng năm lễ hội được tổ chức vào đêm rằm tháng 12 theo lịch Thái (vào khoảng tháng 11 Dương lịch) trên khắp Thái Lan và ở một số vùng của Lào và Myanma (ở bang Shan). Tên chữ La-tinh của lễ hội là Loy Krathong hay Loi Krathong (tiếng Thái: ลอยกระทง).
Sau lễ hội Songkran vào dịp Tết truyền thống, Lễ hội Loy Krathong là lễ hội lớn thứ 2 trong năm, và cũng là một trong những lễ hội đẹp nhất, màu sắc nhất và cổ nhất của vương quốc Thái Lan mang nhiều ý nghĩa và chứa đựng nhiều yếu tố thần thoại nhất của người Thái.
Trong tiếng Thái, Loy có nghĩa là "trôi", còn krathong là muốn nói tới chiếc bè nổi trên nước có hình hoa sen. Theo truyền thống, krathong được làm từ lá chuối hoặc các lớp thân cây chuối hoặc các tua của cây hoa huệ nhện (spider lillies). Một krathong gồm có thức ăn, trầu cau, hoa, nhang, nến và tiền xu. Dù làm bằng chất liệu gì, các chiếc krathong đều được trang trí các lá chuối được gấp xếp tỉ mỉ, hoa, nến và nhang. Một vài đồng bạc lẻ thỉnh thoảng cũng được đặt vào để dâng lên các thần sông. Suốt đêm trăng tròn, người Thái thả các krathong này xuống sông, kênh rạch hoặc ao hồ. Nhiều người tin là lễ hội này bắt nguồn từ một tập tục cổ xưa là thể hiện sự tôn kính đối với các thần sông. Ngày nay, lễ hội này đơn giản là một dịp để vui chơi.
Chiếc bè truyền thống được trang trí như bông hoa sen. Những món đồ chính được đặt lên bè là hoa, nến và nhang. Đôi khi, những đồng bạc lẻ cũng được đặt vào giữa những cánh hoa, thả trôi sông. Ngày nay, việc thả các đồng xu vào krathong được coi là một hành động từ thiện. Sáng sớm ngày sau lễ hội, những người nghèo sẽ đi tìm những chiếc bè này để lấy tiền từ thiện từ đó.
Nguồn gốc về Lễ hội hoa đăng của Thái Lan , có nhiều sự tích khác nhau.
Một câu truyện được dân gian được kể lại là vào triều đại đầu tiên của Thái Lan cách đây 800 năm - thời kỳ Sukhothai ở thế kỷ XIII, bằng sự khéo léo của mình, các nàng công chúa của vị vua đương triều đã ghép tàu lá chuối, đặt lên đó một cái đèn hình hoa sen, sắp hoa và nến thơm thả trôi trên mặt nước để tỏ lòng biết ơn của họ với Đức Phật và dòng sông. Nhà vua đã rất vui mừng, và ra lệnh mỗi năm vào ngày 15 tháng 12 (lịch Thái Lan) trăng tròn mùa Loy Krathong nhân dân làm đèn thả nước theo mô hình trên. Đèn nước để bày tỏ lòng biết ơn đối với thiên nhiên, mà còn cầu cho một năm nhiều may mắn.
Theo các ghi chép khác trong "Mongkut" của vua Rama IV năm 1863, nguyên thủy là lễ hội này bắt nguồn từ lễ hội của Ấn Giáo Phệ đà (Vedic Brahmanism) được các sư Thái Lan biến đổi thành một nghi lễ vinh danh đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bên cạnh việc tôn kính Phật bằng cách sử dụng ánh sáng (nến trên chiếc hoa đăng), việc thả trôi đèn nến còn là một hành động biểu trưng cho việc xóa đi mọi sân hận, giận giữ và những thứ ô uế để mọi người có thể bắt đầu lại từ đầu với tâm thế tốt hơn. Mọi người cũng cắt tóc và móng tay rồi đặt lên hoa đăng như là một hành động bỏ đi tất cả các phần xấu xa của mình.
Một cách giải thích đơn giản hơn về lễ hội đã có lịch sử hơn 700 năm, nhiều người Thái tin rằng thả trôi một chiếc hoa đăng sẽ mang lại may mắn tốt lành, và họ làm điều này để tỏ lòng tôn kính với Nữ thần Nước Phra Mae Khongkha (tiếng Thái: พระแม่คงคา) và cầu xin thần tha thứ cho những hành động của con người trong cuộc sống hàng ngày đã làm ô nhiễm nguồn nước của người.
Cuộc thi sắc đẹp gắn liền với lễ hội được gọi là cuộc thi "Tuyển chọn nữ hoàng Nopphamat". Theo truyền thuyết, Nang Nopphamat (tiếng Thái: นางนพมาศ; có thể phát âm là "Noppamas" hoặc "Nopamas") là vợ của vua Loethai của vương quốc Sukhothai thế kỷ 14 và bà chính là người đầu tiên thả trôi một chiếc hoa đăng. Tuy vậy, câu chuyện này chỉ mới được kể vào đầu thế kỷ 19. Không có bằng chứng cho thấy bà Nang Nopphamat có tồn tại hay không. Thay vào đó, có một sự thật rằng một người đàn bà với tên gọi này là nhân vật chính của một tiểu thuyết ra đời vào thời vua Rama III- khoảng năm 1850. Nhân vật này được xây dựng như là một phụ nữ hướng dẫn các phụ nữ muốn trở thành các công chức.
Lễ hội Loy Krathong được tổ chức ở khắp nơi, nhưng lớn nhất là tại thủ đô Bangkok, Sukhothai, Chiang Mai và cố đô Ayutthaya. Vào ngày lễ hội, ngoài hoạt động chính là thả bè nổi với hoa và nến, người ta còn thả đèn trời (còn gọi là khom loi, chủ yếu được tổ chức tại thành phố Chiang Mai), thi kết hoa đăng cùng rất nhiều hoạt động văn nghệ, âm nhạc truyền thống Thái.
Lễ hội Loy Krathong được tổ chức khắp đất nước Thái Lan, nhưng lớn nhất là tại 4 tỉnh Sukhothai, Chiang Mai, Ayutthayavà Bangkok. Ở những nơi này, ngoài hoạt động thả đèn krathong, thành phố còn tổ chức bắn pháo hoa, diễu hành có trống chiêng; đua thuyền hay đua thả đèn hoa đăng, thi kết hoa đăng; cuộc thi sắc đẹp Miss Nopphamat; thưởng thức ẩm thực Thái và các tiết mục biểu diễn văn nghệ, âm nhạc truyền thống của Thái.
Tại Sukhothai, quê hương của lễ Loy Krathong, lễ hội kéo dài 3 ngày. Những chiếc đền lồng được thả dọc các dòng sông và soi sáng những khu di tích khảo cổ đẹp nhất Thái Lan tại Sukhothai, cố đô của vương quốc Xiêm.
Tại thủ đô Bangkok, bên cạnh các hoạt động truyền thống như bắn pháo hoa, rước tàu, một vài khách sạn bên bờ sông Chao Phraya bật đèn sáng gần như cả đêm và một vài bể bơi trong khách sạn cũng cho phép khách thả đèn vào đêm hội. Tại cố đô Ayutthaya là chợ nổi, lễ rước đèn, thi hoa hậu, liên hoan ẩm thực Thái Lan, đua thuyền...
Các văn phòng Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thường kết các hoa đăng lớn được trang trí đẹp đẽ. Ngoài ra còn có nhiều cuộc thi kết hoa đăng ở địa phương và cấp Trung ương, người ta thi thố nhau về độ đẹp và độ tài khéo của nghệ nhân. Thêm vào đó, còn có bắn pháo hoa và thi hoa khôi suốt thời gian lễ hội.
Lễ hội Loy Krathong tổ chức cũng có màu sắc riêng tại một số địa phương. Ví dụ, ở tỉnh Tak (phía Tây Thái Lan giáp với Myanmar) có truyền thống Loy Krathong độc đáo: hoa đăng được kết bằng những tán lá dừa, thay vì lá chuối như phần lớn những nơi tổ chức Loy Krathong ở Thái Lan; từng lễ vật riêng được kết vào nhau thành bè và thả cùng lúc để một chuỗi ánh sáng lấp lánh dọc con sông Ping (con sông nối từ Tak đến trung tâm Thái Lan).
Vùng Kelantan ở Malaysia cũng tổ chức một kiểu lễ hội giống như lễ hội này, đặc biệt là tại khu vực Tumpat. Bộ trưởng phụ trách du lịch của Malaysia đã công nhận lễ hội này là một nét hấp dẫn đối với du khách. Hằng năm, có rất nhiều người đã tham dự lễ hội này.
Hoặc như ở thành phố Chiang Mai phía Bắc Thái Lan nơi cố đô của vương quốc Lan Na, Loy Krathong ở đây có nghi thức khác thường là thả đèn trời kiểu Lanna (cũng hình hoa sen) bay lên bằng hơi nóng với niềm tin rằng khi những chiếc đèn lồng bồng bềnh trên không sẽ mang theo những phiền não của cư dân trong cộng đồng bay mất. Loy krathong ở Lanna, có tên là lễ hội"Yi Peng" (tiếng Thái: ยี่เป็ง). Do sự khác biệt giữa lịch Lanna cổ và lịch Thái mà thời gian Yi Peng được tổ chức lại là ngày rằm tháng 2 theo lịch cổ Lanna ("Yi" có nghĩa là "thứ hai" và "Peng" nghĩa là "tháng" theo tiếng Lanna). Vô số các loại đèn trời theo phong cách Lanna (gọi là khom loi (tiếng Thái:โคมลอย), nghĩa đen: lồng đèn thả trôi) được thả lên trời tạo ra một hình ảnh rất giống một đàn lớn các con sứa khổng lồ phát sáng, đang trôi nổi rất duyên dáng trên bầu trời. Lễ hội là thời gian để tham bun (tiếng Thái: ทำบุญ), để tích đức. Người ta tạo ra khom loi từ một mảnh vải mỏng, hoặc từ bánh tráng và gắn vào đó nến hoặc pin nhiên liệu. Khi pin nhiên liệu được đốt cháy, sẽ tạo ra một lượng khí nóng bị bẫy bên trong chiếc đèn trời, tạo ra đủ lực để nâng khom loi bay lên trời. Ngoài ra, người dân cũng trang hoàng nhà cửa, vườn tược và đình chùa với khom fai(tiếng Thái: โคมไฟ): một loại đèn giấy có nhiều hình thù tinh tế. Khom thue (tiếng Thái: โคมถือ) là các loại lồng đèn để cầm trực tiếp trên tay hay treo vào một cái que nhỏ, khom khwaen (tiếng Thái: โคมแขวน) là các loại đèn treo, còn khom pariwat (tiếng Thái: โคมปริวรรต) là các loại đèn quay (do sức nóng của các ngọn nến bên trong) ở đình chùa. Vào dịp lễ hội, ánh sáng rực rỡ thắp sáng cả khắp mặt nước sông, lấp lánh trên các cành cây, mái nhà, bờ tường và tỏa sáng cả trời cao. Truyền thống Yi Peng cũng được du nhập vào một số vùng của Lào vào thế kỷ 16.
Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012
Tản mạn về ngày 20 tháng 11
Người xưa nói : “ Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, thập niên chi kế mạc như thụ mộc, bách niên chi kế mạc như thụ nhân” ( Sự nghiệp một năm không gì bằng trồng lúa đậu, sự nghiệp mười năm không gì hơn là trồng cây gỗ, sự nghiệp trăm năm không gì bằng đào tạo con người). Đào tạo con người đúng nghĩa là công trình thế kỷ, nhưng để thành tựu một vị Phật phải trải qua 3 a tăng kỳ kiếp, một thời gian dài không thể tính đếm, một công đức tu tập khó thể đo lường. So ra, tu và học trong một kiếp mấy mươi năm đời người thật chẳng đáng là gì cả, nhưng có đi là có đến, thôi, hảy dõng mãnh cùng nhau học và tu, thầy cùng trò hòa hợp thăng tiến để hoàn thành công hạnh trong cái mắc xích ngắn ngủi trên lộ trình hướng về Phật quả.
Những ngày gần 20 tháng 11 trời Sài Gòn thật dễ chịu. Nắng cuối Thu có phần gay gắt vào ban trưa nhưng sáng sớm và chiều trời dịu hẳn, mây cũng gieo chút âm u cho đất trời có phần thi vị của mùa Thu phương Nam . Cứ mỗi năm vào dịp này, một cảm giác nhẹ nhàng ấm áp lại hiện hữu trong tôi. Đến hẹn lại lên, sáng nay những người học trò đáng yêu của tôi( những Tăng Ni giảng sinh Cao cấp Giảng Sư khóa VI ) rồi đến chiều một nhóm Tăng Ni sinh lớp Sơ cấp Phật học Gò Vấp đã hiện diện nơi tệ xá _trú xứ của tôi_với món quà, giỏ hoa tươi kèm theo là những nụ cười hân hoan.
__Chúng con chào sư phụ!!!
Những câu chào hỏi thân thương tôi vẫn thường nghe, nay thấy khác mọi ngày. Ngày nhà giáo mà, cả năm học có một ngày để là dịp học trò biểu lộ sư tri ân. Thiêng liêng là thế mà thân thuộc gần gũi cũng là đây.
Ngôi tệ xá của tôi không biết đã bao lần đón nhận những bước chân vui tươi háo hức của những Tăng Ni sinh học trò đến thăm thầy. Lần được gọi là đầu tiên có lẽ cũng đã hơn 15 năm, mỗi năm lại có những vị khách mới _những Tăng Ni sinh các trường Phật học nơi tôi đang giảng dạy. Bóng dáng những học trò cũ cũng thưa dần (có vị đã là giáo thọ cùng đứng chung bục giảng với thầy cũ), thay vào đó là những khuôn mặt mới tinh khôi và đầy nhiệt huyết tuổi trẻ. Thôi thì những lời hỏi han rối rít, những câu đùa cợt nhí nhảnh dễ thương có chừng mực, dành cho thầy, cho bạn để cùng nhau đổi lấy những nụ cười. Vui để ngày mai còn tiếp tục tu và học nữa chứ!
Những giờ lên lớp với viên phấn trên tay, những dòng chữ in trên bảng đen và những ngôn từ phương tiện chuyên chở thông tin làm cầu nối với những bóng áo lam, áo nâu ngồi dưới kia, cả những “sự cố bục giảng”, những tình huống không có trong giáo tài giáo án, đã trở thành những mảng ký ức, có khi thăng hoa thành những nỗi niềm mà người trong cuộc( hay nói trong nghề cũng được) mới cảm nhận được. Ngoài đời người ta vẫn hay dùng chữ “tuổi nghề” để chỉ một ai đó có bề dày kinh nghiệm và thâm niên trong một lĩnh vực, riêng tôi sao thấy mình càng tham gia giảng dạy càng lâu càng phải bổ khuyết thật nhiều thêm nữa, càng phải đào sâu chiêm nghiệm tư duy và hoàn thiện thiện xảo phương tiện hơn nữa.
Thật cũng nhiều danh xưng mọi người, mọi nơi trân trọng dành cho chúng tôi, là giảng sư, là giáo thọ, giáo thọ sư,… thậm chí có vị trụ trì còn ưu ái trịnh trọng gọi tôi là Pháp sư trong nghi thỉnh sư thăng tòa thuyết giảng. Thôi thì thế nào cũng được, tôi chỉ nghĩ mình đang đem cái sở học cỏn con mà báo ơn Phật Tổ bằng cách phổ biến cùng Tứ chúng. Người đời vẫn dùng từ “thiên chức” để chỉ cho những vai trò thiêng liêng trong cuộc sống : thiên chức làm mẹ, thiên chức làm thầy,…thuật ngữ cuộc sống thì nhiều, chúng tôi chỉ biết mình đang theo gót chân Đức Từ Phụ cố gắng gieo trồng vun xới những hạt giống, những chồi mầm Phật Pháp để Chánh Pháp còn mãi với mai sau. Và như một quán tính, chúng tôi cứ giảng dạy, cứ nghiên tầm, cứ tư duy, quán chiếu và cứ ngày ngày lên bục giảng, như một con người bình thường đã quen những sinh hoạt thường nhật.
Nhưng có một điều rất thật là tình thương chúng tôi dành cho những Tăng Ni sinh của mình rất đậm, rất lớn. Càng thương quý học trò của mình bao nhiêu, chúng tôi càng kỳ vọng vào các vị bấy nhiêu, và rồi những băn khoăn khi bài giảng chưa chỉnh chu, một thuật ngữ khi chưa cùng học trò khai thác ý nghĩa triệt để và thấu đáo khiến chúng tôi bất ổn trong hạnh nguyện trước Chư Phật Chư Tổ. Bởi học và dạy Phật Pháp thật vô cùng gian nan nếu ai hiểu được ý nghĩa của hai từ này. Thâm nghĩa Chư Phật gởi gắm trong câu Kinh bài Kệ nếu làm cho đồ chúng lệch lạc trong khi lĩnh hội thì tội Phá kiến người truyền trao phải gánh chịu. Thật cẩn trọng chẳng bao giờ thừa!
Người xưa nói : “ Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, thập niên chi kế mạc như thụ mộc, bách niên chi kế mạc như thụ nhân” ( Sự nghiệp một năm không gì bằng trồng lúa đậu, sự nghiệp mười năm không gì hơn là trồng cây gỗ, sự nghiệp trăm năm không gì bằng đào tạo con người). Đào tạo con người đúng nghĩa là công trình thế kỷ, nhưng để thành tựu một vị Phật phải trải qua 3 a tăng kỳ kiếp, một thời gian dài không thể tính đếm, một công đức tu tập khó thể đo lường. So ra, tu và học trong một kiếp mấy mươi năm đời người thật chẳng đáng là gì cả, nhưng có đi là có đến, thôi, hảy dõng mãnh cùng nhau học và tu, thầy cùng trò hòa hợp thăng tiến để hoàn thành công hạnh trong cái mắc xích ngắn ngủi trên lộ trình hướng về Phật quả.
“Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi”
(Thiền sư Mãn Gíac )
Nhớ những năm còn là học Tăng ở các Phật Học viện, hồn nhiên vui tươi vì còn đang tuổi ăn tuổi học, nhựa sống tràn trề, cứ tưởng mọi người chung quanh mình cũng đều như thế, thật là cặp “kiếng màu” tuổi trẻ. Thuở đó các vị giáo thọ sư dạy chúng tôi hầu hết đều đã ngoài 50, các vị vẫn lên lớp đều đặn. Cũng thỉnh thoảng có vị này bị bệnh này, vị khác phải triệu chứng nọ, nghe cũng thương và lo cho quý thầy, nhưng thông và cảm thì vẫn chưa “tới”. Thấm thoát mười năm trôi qua, rồi mười mấy năm nữa, một buổi sáng để ý thấy mình cũng đã lấm tấm muối tiêu, đầu xanh chớm bạc, ngoại tuổi “tri thiên mệnh” rồi còn gì. Lại thêm nay mỡ máu cao, mai lại men gan tăng đột ngột, mốt lại đau gối nhức xương vì thoái hóa khớp,…cũng có hôm tự dưng thấy cơ thể mệt mỏi không hiểu nguyên do, y như bệnh giả đò; thì cũng ngoại ngũ tuần còn gì, làm sao còn “phây phây” như thuở tráng niên được, đời người sanh trụ dị diệt không ai tránh khỏi. Nghĩ lại càng thương những bậc ân sư giáo thọ ngày trước. quả là “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Lại thoáng nghĩ một câu buồn cười : Có khi nào các học Tăng học Ni bây giờ nghĩ về mình như mình đã nghĩ về quý thầy giáo thọ cũ của mình không nhỉ? Mà giả dụ như có thật chắc có lẽ họ sẽ chăm học chăm tu hơn hiện tại, được thế thì tốt quá, vui quá.
Lại nhớ xa hơn chút nữa, vào năm 1968 1969 gì đó, cái “ngày đầu tiên đi học, em theo mẹ đến trường”, lời bài hát luôn gợi cho tôi một trang ký ức xa xăm. Một buổi sáng đầu Thu, mẹ tôi mặc chiếc áo dài, tôi vai mang một chiếc cặp bằng nhựa áo trắng quần sooc, mẹ nắm tay tôi dẫn đến văn phòng trường tiểu học công đồng X. Tôi thấy rất đông các bà mẹ cũng xúm xít tranh nhau nộp hồ sơ nhập học cho con mình. Mẹ tôi chen vào đám đông, lâu lâu lại quay lại trông chừng tôi. Xong việc, tôi được mẹ mua cho cây cà rem đá mút mút, tê đầu lưỡi lành lạnh thật lạ và thật thích. Ngày đến trường đầu tiên của tôi là thế. Lại thoáng nghĩ, thời điểm đó mẹ có nghĩ một ngày mình sẽ rời mẹ bước vào đời sống xuất gia. Nhưng dù sao mẹ vẫn là bậc thấy đầu tiên của đời mình, “ mẹ dạy cho con tiếng nói quê hương” như ca từ của nhạc sĩ thiên tài họ Trịnh, mẹ dạy con cách cầm đũa, cách mặc áo, cách cảm ơn, xin lỗi, cách đối phó sơ đẳng nhất với những bất lợi cuộc sống. Mẹ_người thầy vĩ đại biết bao!
Thế rồi hôm nay, tôi vẫn đang bước theo con đường của Bậc thầy vĩ đại nhất của nhân loại_Thầy của trời người : Đức Đạo Sư Từ Phụ Thích Ca, tôi mang trong mình hành trang của bậc thầy vĩ đại đầu đời : người mẹ hiền đã khuất bóng và tiếp tục lộ trình vì đàn em Tăng ni sinh với tinh thần báo ơn với những bậc ân sư trưởng lão đã một thời dày công khai sáng giới thân tuệ mạng.
Lớp lớp Tăng ni trẻ mới nhập Đạo của tôi, một ngày khai giảng rồi một kỳ bế giảng tốt nghiệp, họ đến rồi ra đi vào những lộ trình cao xa hơn theo từng giai đoạn tu học. Như dòng chuyển lưu vô tận, Phật Pháp vẫn truyền trì qua từng thế hệ.
Tôi_người lái đò sắp già nua vẫn còn đứng đây, mãi dõi theo bóng những người khách qua sông, mong họ vững bước đăng trình đến những chân trời cao rộng. Sẽ có một ngày sức tàn lực kiệt, có thể do bệnh duyên, hay sức khỏe không còn đảm đương nổi những nhịp chèo, nhưng người lái đò vẫn sẽ mãi vui khi biết rằng những khách sang sông năm nào đã đúng hướng hành trình.
Sài Thành, 20-11-2012 – PL. 2556
Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012
TẢN MẠN TÂM TƯ
Không học Phật Pháp thì không biết đường nào để giải thoát, nhưng cái thấy trong lúc chứng ngộ tuyệt nhiên không giống với những gì ta đã học. Tấm bản đồ không phải con đường, càng không phải chỗ mình muốn đến. Nhưng bỏ mất nó thì có mà chết, mà ôm cứng lấy nó cũng chết. Muốn tu học ngon lành, hãy hỏi mấy em hướng đạo sinh cách dùng bản đồ.
Công đức bố thí giúp ta được giàu có, nhưng giá trị của sự giàu có không bằng một phần triệu của cái tâm bố thí. Dầu ta có giàu đến cỡ nào đi nữa.
Người tu hành phải biết sống vô sản, nhưng không tài sản chưa hẳn là sự tu hành. Cái tâm không tha thiết vật chất là tâm của hiền thánh, sự nghèo khó trong nổi thèm khát nọ kia chỉ là đời sống của loài ngạ quỷ.
Người ta nói té ở đâu thì phải đứng lên từ chỗ đó. Mọi khổ ải trầm luân luôn bắt đầu từ sự có mặt của ngũ uẩn, nhưng không biết nhìn lại ngũ uẩn mà có thể giải thoát thì là chuyện xưa nay chưa từng.
Những may mắn ta có được bây giờ chỉ là quả lành từquá khứ. Một người điên hay đứa con nít chỉ biết trái xoài trên tay, không biết phải làm sao để sau đó có thêm những trái xoài khác.
Thuyết pháp và lập chùa là giúp người khác tu tập. Nhưng người làm hai việc đó thường rất dễ quên mình. Xưa nay kẻ trúng số hiếm bao giờ là người bán vé số. Không hiểu tại sao.
Kẻ tu hành cứ lo đi đứng đây kia thì tâm tư dễ bị loạnđộng. Nhưng ở hoài một nơi coi chừng tâm tư tù đọng. Nếu phải đi, lòng cần nhưgió và nếu phải ở, tâm nên như nắng, đốm nắng bên thềm.
Giới luật là dãy hàng rào bảo vệ người, đất và tài sản bên trong, chớ không phải để giam hãm, nhốt tù chủ nhân.
Ý nghĩa của chuyện tu hành là để bỏ được cái gì, không phải để có được cái gì. Hai động từ này đã thay đổi lịch sử Phật giáo.
Một sợi tóc hay chiếc lá me nhỏ xíu có thể khiến ta dầm mình trong một niềm vui hay nổi buồn chất ngất. Vậy mà nhiều lúc đi ngang một ngọn núi hay hồ nước mênh mông ta vẫn không có cảm giác gì đặc biệt. Ở đời không có gì là nhỏ hay lớn tuyệt đối, cái cốt tử là lòng mình ra sao.
Đọc báo thấy sự ngoan hiền tuyệt đối của người dân Triều Tiên, rồi nhìn lại sự răm rắp của Phật tử và giáo dân một số nơi, nhiều người thấy tiếc đến nhói ruột. Ước gì kẻ lãnh đạo của bầy chiên lành đó biết tận dụng sự trung thành tận tụy kia một cách thông minh và thiện chí thì chuyện tốt nào làm không xong chứ. Người ta chỉ biết chăn nuôi nhằm những mục đích rất nhỏ nhoi.
Trên mấy chiếc máy bay dân sự của Mỹ luôn có câu này ở lưng ghế trước mặt hành khách: Life Vest Under Your Seat. Phao cứu hộ nằm ngay bên dưới ghế ngồi của bạn. Ô hay, câu này nghe quen quen, hình như có một câu Pháp Cú cũng có nội dung tương tự !
Mấy chục tuổi đầu, một ngày nhận ra chuyện này lạ lắm. Một người thông minh và thiện chí vị tha đến mấy cũng mặc, cứ trao tay họ chút quyền lực thì hầu hết ai cũng đột nhiên ngu, ác, và tham giống hệt nhau. Khác biệt chăng là hình thức biểu hiện. Tôi lạnh người khi tìm hoài đến giờ vẫn không thấy ngoại lệ.
Người cư sĩ càng ít hiểu biết giáo lý thì cơ hội làm nô lệ sẽ lớn hơn cơ hội làm đệ tử của tăng ni.
Ở một số cửa hàng bên Mỹ, người ta ghi câu này trên cánh cửa phòng vệ sinh: No Merchandise Beyond This Point. Tạm hiểu là đừng mang hàng hoá vào đây, hoặc chuyện buôn bán là ở ngoài kia, không phải trong này. Trời ạ, lẽ ra câu này phải được treo ở nhiều nơi lắm.
Người ta ít khi có hứng thú với món hàng mình đang bán, cần thứ gì tương đương thì vẫn thích tìm đến mua ở chỗ khác. Người tu học coi chừng mình cũng vậy, qua ngày dài tháng rộng không còn tin vào những gì mình vẫn rao giảng tuyên truyền. Đưa người vào đạo, còn mình hướng tâm về đời.
Buôn có bạn, bán có phường. Trong cửa thiền hình nhưcũng thế. Người tinh tấn hay giải đãi luôn đi theo nhóm, nhóm càng đông thì quan điểm của mình càng được củng cố. Cái bậy được nuôi dưỡng lâu ngày cũng thành ra một cái đạo chứ chẵng chơi !
Mọi kiến thức và suy tư ngoài kinh điển phải được quy chiếu trên kinh điển, nhằm chứng minh Phật Pháp uyên nguyên, không phải những thứ có thể thay thế lời Phật. Vào Youtube nghe tăng ni bây giờ thuyết giảng dễthấy mọi sự đang đi ngược lại.
Người có nghe thấy chút ít về Phật mỗi khi có chuyệnđau buồn thì thường muốn tìm về bên chân Phật. Khổ nổi có được mấy người lúc vô sự chịu nghĩ đến việc xây dựng một Phật giáo ngon lành. Thế là cái Phật giáo mà thiên hạ tìm đến lúc hữu sự chỉ là một biển hiệu mang tính biểu hiện.
Ai cũng sợ chết, sợ bị đoạ, nhưng kiểu sống của thiên hạ thì giống hệt như hai chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Dù chúng có thể đến ngay đêm nay hay sáng mai không chừng. Ngộ thiệt.
Lời dạy nguyên thủy của đức Phật rất thực tiễn, dễ chứng minh qua đời sống thực tế. Nhưng không hiểu sao người học Phật hôm nay lại chỉ dốc lòng tin vào những điều huyễn hoặc xa vời, và chê lời dạy thứ thiệt của Phật là tiểu thừa nhỏ bé. Sợ sách cắn hay sao mà ngại nghiên cứu kỹ lưỡng một chút. Thời mạt thế rồi sao chứ !
Ăn gì cũng sợ dư mỡ, dư đường hay cao huyết áp. Vậy mà về tinh thần thì bất cẩn đến khó hiểu, ai nói gì cũng tin, cũng cố nhét vào óc như là lời thánh. Bảo là ngu thì giận. Người ta thương mình mà lại hận người ta. Thế có nên không ?
Học vị hay bằng cấp trong đạo lẫn ngoài đời luôn rất cần thiết, nhưng nó là bảo chứng cho một trình độ kiến thức có thiệt, không phải cái có thể thay thế cho kiến thức mà mình chưa có. Không gì nguy hiểm cho bằng việc ngồi lên một phi cơ mà người lái không có đủ kiến thức của một phi công.
Kẻ viết bài này chỉ là một gã tục tử chọn cách nói đểchúng chửi hơn là im lặng ởm ờ để mặc những điều trái khoáy mặc nhiên tồn tại ở đời. Viết xong có vì vậy mà chết cũng tốt hơn là sống trăm tuổi mà làm con hến vô tri, vô trách nhiệm. Mong lắm vậy thay !
TOẠI KHANH mùa mưa 2012
DÒNG ĐỜI XUÔI NGƯỢC
Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012
ĐẠO KHẢ ĐẠO PHI THƯỜNG ĐẠO
Nên đọc nhiều sách, nhưng nếu không biết lựa sách để đọc thì đọc cả đời cũng vô công. Xin nhớ giùm, thời gian ta có không nhiều, mà thứ không đáng đọc phải tính bằng số triệu.
Quen biết nhiều thì tốt, nhưng không biết lựa bạn lành thì coi như trao thân nhầm chỗ.
Ăn gì cũng thấy ngon miệng có thể nói là chuyện tốt, nhưng gặp gì cũng ăn thì là chuyện xấu.
Đi nhiều chưa hẳn là xấu, nhưng đi không có mục đích đàng hoàng chỉ là lang thang trôi giạt : Phí tiền, phí sức, phí thời gian, phí đủ thứ.
Giai đoạn tu học nào cũng tốt, nhưng một khi dừng lại để tâm đắc với nó thì coi như tiêu tùng. Giới luật, thiền định, tri kiến,… đều vậy cả.
Yêu nước không tệ, nhưng đi theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan (ultra-nationalism) thì lập tức không xài được.
Bớt ngủ nghỉ thì tuyệt, nhưng bệnh mất ngủ thì tuyệt không nên có.
Phật giáo không có chùa chiền thì tứ chúng sinh hoạt thế nào, nhưng coi nặng chùa chiền hơn việc đào tạo nhân sự tài đức thì hỏng.
Không có tín nữ thì tăng ni có mà chết, nhưng để họ ngồi hẳn chiếu trên thì coi chừng loạn.
Bài xích hay chống đối tôn giáo khác là chuyện không nên, nhưng nên lưu ý việc họ cải đạo các Phật tử. Họ giỏi hay ta dở ? Vấn đề không phải là sự tranh giành, mà là nhiều chuyện khác.
Muốn giữ nước hay giữ đạo đều không thể bỏ qua mấy điều này: Có lý thuyết ngon lành nhưng thiếu hành động thì chỉ là đánh trận trong mơ. Có hành động nhưng thiếu một lý thuyết ngon lành thì chỉ là cờ lau tập trận.
Chỉ vì khoái mùi vị máu thịt mà ăn mặn là gieo chủng tử loài ăn thịt sống. Chỉ biết cắm cổ ăn chay mà không biết gì hơn, là gieo chủng tử loài ăn cỏ. Thực đơn (menu) trong đầu quan trọng hơn trên bàn ăn.
Chỉ biết lo sướng thân mà không màng gì ngoài ra, dù trong đạo hay ngoài đời, chỉ là trẻ con. Biết mà không dám bày tỏ, là người câm. Có người bày tỏ mà mình vẫn không màng, đó là người điếc. Nghe bày tỏ mà không nhận thức nổi vấn đề, đích thị người điên. Biết mà không hành động, hẳn là người bại liệt.
Những kẻ chống đối này nọ thường mang trong máu những thứ mà họ đang chống đối. Chống độc tài nhưng khoái bá quyền; chống mê tín trong khi mình cuồng tín; chống Tư Bản khi mình vẫn thích tư hữu ích kỷ; chống Cộng sản khi mình tham, ác, dốt, dối đủ cả.
Mê đắm trong ngũ dục là luân hồi kiểu hạ cấp, mê đắm thiền định là luân hồi kiểu cao sang, tu Quán mà chưa thật sự chán sợ sinh tử thì coi chừng Tăng Thượng Mạn (adhimàna), tức còn hơi sức để soi gương trong ngôi nhà đang cháy.
Không biết gì để nói, là dốt. Nói quá chỗ biết của mình là phét. Nói không kiểm chứng là ẩu. Biết không cần thiết mà vẫn nói là nhảm. Biết điều cần thiết mà không nói là hiểm.
Biết mình là thượng đế của mình chắc chắn dễ sống hơn là tin rằng mình được ai đó an bày mọi thứ. Thật lạ khi không hiếm kẻ trí thức vẫn cứ chọn cách nhận thức thứ hai.
Rõ ràng nhận thức về tính Vô Ngã giúp ta thanh thản hơn sự tin tưởng vào một cái gì đó. Nhưng cũng là lạ khi phần lớn thiên hạ cứ sợ mình bị mất.
Nhiều người cứ tưởng lúc NHẬN vui hơn lúc CHO, nhưng nằm nghĩ lại đi, hình như phải thấy ngược lại mới đúng. Hiếm có món quà nào có thể khiến ta vui suốt mấy chục năm, nhưng một nghĩa cử đẹp ta trao ra lần nào đó sẽ khiến ta vui hoài không chán.
Ai cũng tưởng đông người chung quanh sẽ vui hơn sự cô độc. Nhưng kỳ thực, sự lẽ loi hiếm khi làm khổ ta như sự chung đụng. Ngồi ngó bóng mình trên vách lâu ngày sẽ nghiện chứ chẵng chơi !
Cái gì dễ được cũng dễ mất, Tình, tiền hay chuyện tu tập đều thế.
Cứ tưởng có một căn phòng riêng tĩnh mịch để sống tâm linh gì đó thiệt cao siêu, ai ngờ lúc có rồi cứ ngại bước vào, hoặc có vào cũng chỉ để nằm nghĩ vẩn vơ một lát rồi ngũ là nhiều.
Tình cảm là mật đắng, không phải mật ngọt. Có điều nó thơm và đẹp. Nhưng khôn hồn đừng chạm vào. Ai biết chữ Tình bằng cả lục căn thì chỉ có chết !
Nhiều người cứ tưởng mình thông minh hay trí thức, nhưng thực ra đời sống của họ rất dễ bị ảnh hưởng bởi nhiều thứ: Chuyện lớn có thể là cuộc bầu cử ở Mỹ, đại hội Đảng của Trung Cộng, và nhỏ hơn, có thể chỉ là điệu nhảy Gangnam Style của anh chàng Park Jae Sang thoạt nhảy ra từ bóng tối.
Có viết đến ngàn năm nữa cũng không hết được điều muốn nói, tôi bỗng dưng muốn kết thúc bài viết bằng một câu nói của Edith Sitwell, một nhà thơ người Anh (1887-1964): I am patient with stupidity but not with those who are proud of it. Tạm dịch là thằng ngu thì tôi còn gượng chịu đựng được, chứ đứa kiêu ngạo với cái ngu của mình thì tôi bó tay !
TOẠI KHANH 11/16/12
Nguồn: http://namtong.org
Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012
Ðại lễ Tăng y Kathina và truyền thống Tăng Già
Đại lễ Tăng Y Kaṭhina là đại lễ hằng năm duy nhất được chính Đức Phật và chư Phật quá khứ ban hành. Trong cung cách cúng dường một bộ y đặc biệt với một số luật định khiến đại lễ nầy trở thành một thắng duyên cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Để tìm hiểu về đại lễ nầy cần đi vào một số chi tiết quan trọng chứ không thể nhận định qua một vài khái niệm.
I. Vài điều cần biết tiên khởi
a. Nhập hạ (Vassa)
Thời Đức Phật tại thế, Ngài và chư Tăng có nếp sống du phương nghĩa là đi từ nơi nầy sang nơi khác để hoằng hoá. Thời tiết tại Ấn Độ từ Rằm Tháng Sáu đến Rằm Tháng Chín Âm lịch là mùa mưa (monsoon). Trong thời gian nầy côn trùng sanh nở, cây cối đâm chồi nẩy lộc, sự đi lại khó khăn. Đức Phật và chư Tăng an cư một nơi có máy che trong suốt thời gian nầy. Đây cũng là dịp để chư tăng trau giồi pháp học, pháp hành. Thông thường thì chư Tăng chính thức nhập hạ từ Rằm Tháng Sáu đến Rằm tháng Chín gọi là Tiền An Cư (Purimikavassa). Nếu có việc chẳng đặng đừng thì nhập hạ sau đó một tháng tức từ Rằm Tháng Bảy đến Rằm tháng Mười gọi là Hậu An Cư (Pacchimikāvassa). (Phật giáo Bắc Truyền an cư từ Rằm Tháng Tư đến Rằm Tháng Bảy và sau nầy tại Việt Nam dùng chữ kiết hạ có ý nghĩa tương đối khác với luật nghi)
b. Pháp phục của chư tăng
Pháp phục của một tỳ khưu gồm tam y ca sa. Tất cả đều may theo hình chữ nhật không giống như quần áo người cư sĩ (nên có câu người xuất gia đầu tròn áo vuông). Ba y gồm có y nội (antaravāsaka - an đà hội hay hạ trước y) , y vai trái (uttarasaṅgha - Uất đà la tăng hay thượng trước y), y kép (saṅghati - tăng già lê hay trùng phục y). Vì là hình chữ nhật nên dễ tự may cắt. Màu sắc thường là màu vàng, màu nghệ, màu nâu. Tăng y tiêu biểu cho hạnh xả ly. Trong kinh cũng gọi là lá cờ của bậc Ứng Cúng. Một lần Đức Thế Tôn đi ngang triền núi của xứ Magadha, ngài gợi ý cho tôn giả Ananda may y ca sa theo hình thức những thửa ruộng biểu trưng cho phước điền vô thượng của thế gian
c. Nghi luật Tăng sự (Saṅghakamma)
Chư tăng truyền thống là một đoàn thể dân chủ đại nghị. Khi có bất cứ điều gì cần giải quyết hay thực hiện với sự thông qua tăng chúng thì cần có những thể thức rõ ràng được gọi là Tăng Sự (sanghakamma).
Trong những Tăng Sự như vậy thì điều quan trọng nhất là tác bạch tăng sự (kammavācā). Đây là một lời trình đúng theo luật nghi do một vị thông hiểu giới pháp thực hiện. Thường thì chư tăng thông qua bằng sự im lặng. Tác bạch tăng sự đó phải đúng việc, đúng thể thức, đúng thời, đúng tăng hội. Các dịch giả Trung Hoa không tìm được chữ dịch thoả đáng nên dùng Phạn âm là Yết ma (Kamma). Một số chư Tăng Nam Tông Việt Nam dùng chữ "tuyên ngôn" nhưng từ nầy không chuẩn vì mang nghĩa khác.
II. Đại lễ Tăng y Kathina
a. Ý nghĩa của chữ Kaṭhina
Kaṭhina có nghĩa là bền chặt, không dễ bị vỡ vụn. Gọi như vậy vì đại lễ nầy kết cấu nhiều qui định quan trọng dẫn đến thắng duyên. Một người làm phước sự gì quá đơn giản thì tâm của người cúng dường cũng như người thọ thí thường khó làm cho sự bố thí đạt đến chỗ viên mãn nếu thiếu những yếu tố thù thắng của tâm thí, thời thí, vật thí, người thọ thí, và cung cách thí. Đại lễ Kathina bao hàm tất cả những điều đó nên gọi là bền vững, viên mãn.
b. Dâng y
Có một số điều nhất định không thể khác đi được trong việc dâng y Kathina:
- Mỗi chùa một năm chỉ tổ chức một lần bất cứ ngày nào từ Rằm tháng Chín đến Rằm tháng Mười. Sau lễ nếu có người cúng một số tiền thật lớn để tổ chức thì cũng không làm được.
- Chỉ có thể cúng dường nếu có chư tỳ khưu nhập hạ tại chùa.
- Chỉ cúng dường đến đại chúng Tăng già rồi chư Tăng giao y theo nghi luật chứ không cúng trực tiếp cá nhân tỳ khưu nào. Nên không tự tay trực tiếp dâng y mà đặt y trước mặt Đại Tăng. Chư tăng chỉ nhận bằng cách im lặng chứ không bằng tay.
- Chỉ một trong ba y được dùng để cử hành Tăng sự.
- Cả hai giới xuất gia và tại gia đều có thể tổ chức lễ Tăng y Kathina.
- Có thể dâng y may sẳn hay vải để may y.
c. Thọ y
Chư Tăng phải thọ y theo nghi luật được Đức Phật ban hành: - Phải có đủ túc số từ 5 vị tỳ khưu trở lên mới có thể cử hành tăng sự thọ y Kathina.
- Tiêu chuẩn giao y ưu tiên theo nhu cầu (thí dụ như y quá rách), rồi hạ lạp, rồi sự am hiểu thể thức thọ y.
- Nếu là y Kathina là vải thì phải cắt, may, nhuộm, và hoàn tất tăng sự trong ngày.
- Tăng sự được thành tựu sau ba lần tác pháp yết ma với sự im lặng đồng thuận của tăng chúng.
- Vị tỳ khưu thọ y phải biết xả y cũ, làm dấu và chú nguyện y mới, và hoàn tất bằng lời trình.
- Những vị tỳ khưu khác cùng nhập hạ nói lời tuỳ hỉ .
III. Đại lễ Tăng y và truyền thống Tăng già
a. Tăng thể là đại thể
Tăng luôn được hiểu là đại thể của tất cả những vị tỳ khưu truyền thừa giáo pháp. Ngày nào người Phật tử cúng dường nghĩ đến đại thể thì Phật Pháp còn hưng thịnh và sự cúng dường vô phân biệt nói lên tinh thần chung vượt ngoài những quan niệm cá nhân. Chiếc y Kathina cho dù trong hình thức đơn giản nhất cũng nói lên ba điều quan trọng là người cúng dường không cá nhân tuyển thí, chư tăng giao y theo cách lợi hoà đồng quân và lễ phẩm được trang trọng vì chuyên chở giá trị truyền thống.
b. Quả phước của lễ Tăng y Kaṭhina
Người cúng dường y Kathina gieo tạo phước duyên thù thắng vì làm được Tăng thí vô phân biệt, cúng dường đúng thời, cúng dường hợp đạo. Người làm được điều nầy đời sau có duyên lành xuất gia, tác thành tăng tướng nhanh chóng, và đầy đủ phước vật. Đại lễ tăng y mang lại an lạc cho Tăng già, do vậy, là một phước hạnh thù thắng.
c. Lễ Tăng Y và ảnh hưởng xã hội
Người đầu tiên tổ chức Tăng y trong giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là đại thí chủ Visakha. Tổ chức tại chùa Kỳ viên, thành Savatthi. Ngày nay tại các quốc gia Phật giáo Nam Truyền thì đây là lễ hội lớn làm nổi bật ba ý nghĩa: hộ trì Tăng Chúng để giáo pháp trường tồn, người cư sĩ tìm thấy niềm vui đạo vị của một mùa lễ hội và ngày đại lễ nầy cũng nhắc nhở cả hai giới xuất gia và tại gia phải trân trọng tấm lòng của đàn tín.
Thượng Tọa Giác Ðẳng
Nguồn: http://phapluan.net
Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012
Mong ước của người xuất gia
Người xuất gia mong ước những gì, và làm sao thành tựu được mong ước của mình? Trong bài kinh Ước nguyện (Àkankheyyasutta) thuộc tuyển tập Trung Bộ, Đức Phật nêu ra mười hai mong ước “chính đáng” của người xuất gia nhằm khuyến khích các học trò mình nỗ lực tu tập đạo lý giác ngộ. Có mong ước chính đáng tức sẽ có nỗ lực chính đáng và kết quả chính đáng. Mười hai mong ước gồm:
1. Mong được các đồng phạm hạnh thương mến, yêu quý và tôn trọng.
2. Mong nhận được tứ sự cúng dường: y phục, món ăn khất thực, sàng tọa và dược phẩm trị bệnh.
3. Mong những vị hiến cúng tứ sự cúng dường được quả báo, lợi ích lớn.
4. Mong bà con huyết thống khi mệnh chung nghĩ tưởng đến mình với tâm hoan hỷ nhờ vậy được quả báo, lợi ích lớn.
5. Mong nhiếp phục lạc và bất lạc.
6. Mong nhiếp phục khiếp đảm và sợ hải.
7. Mong chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú.
8. Mong chứng được các cảnh giới giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát sắc giới, thuộc vô sắc giới.
9. Mong chứng quả Dự lưu.
10. Mong chứng quả Nhất lai.
11. Mong chứng quả Bất lai.
12. Mong thành tựu lục thông (thần túc thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng minh, thiên nh.n minh, lậu tận minh), hướng đến diệt trừ lậu hoặc, chấm dứt khổ đau.
Trên đây là mười hai mong ước “chính đáng” của người xuất gia. Đáng chú ý là bài kinh đề cập các ước nguyện của người xuất gia và dùng các mệnh đề giả định để khẳng định một luận đề: Có làm thì có kết quả.
Chẳng hạn, luận đề thứ nhất nêu như sau:
“Này các Tỷ- kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được các đồng phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh”. Như vậy, vấn đề không phải nằm ở chỗ mong ước mà chính là cách thức làm thế nào để thực hiện mong ước. Người xuất gia có thể nuôi dưỡng các ước mong chính đáng của mình nhưng cần phải biết cách biến mong ước thành hiện thực. Nói khác đi, Đức Phật khuyên người xuất gia cần phải nuôi dưỡng các tâm lý ước mong chính đáng để thúc đẩy . chí tự độ và độ tha, nhưng trên hết cần phải hiểu rằng sự chuyên tâm hành trì giáo lý giới- định- tuệ chính là cách duy nhất để người xuất gia hoàn thành các ước mong chính đáng của mình. Sau đây là toàn văn lời Phật dạy1: “Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được các đồng phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên tr., nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nay hưởng thọ các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh! Mong rằng hành động của những vị tạo ra các vật dụng ấy được quả báo lớn, được lợi ích lớn!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi họ chết và mệnh chung, nghĩ đến ta với tâm hoan hỷ và nhờ vậy được quả báo lớn, lợi ích lớn!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh.Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc, chớ không phải bất lạc nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống, luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chớ không phải khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta! Mong rằng ta sống, luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng, tùy theo . muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Có những giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát Sắc giới, thuộc Vô sắc giới. Mong rằng ta có thể cảm xúc với thân và sống an trú trong cảnh giới ấy!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta trừ diệt ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không c.n bị đọa lạc, chắc chắn hướng đến Chánh giác!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng trừ diệt ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, ta chứng được Nhứt lai, chỉ phải trở lại đời một lần nữa để đoạn tận khổ đau!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng, trừ diệt năm hạ phần kiết sử, ta được hóa sanh, chứng được Niết-bàn ngay tại cảnh giới ấy, không còn trở lui thế giới này nữa!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta chứng được các loại thần thông! Một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta hiện ra một thân; ta hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua thành, qua núi như đi ngang hư không, ta độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chạm như trên đất liền; ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, ta chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; ta có thể, thân ta có thần thông bay cho đến Phạm Thiên!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh.Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng, với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở gần!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng với tâm của ta, ta biết được tâm của các chúng sanh và loài Người. Tâm có tham, ta biết tâm có tham. Tâm không tham, ta biết tâm không tham. Tâm có sân, ta biết tâm có sân. Tâm không sân, ta biết tâm không sân. Tâm có si, ta biết tâm có si. Tâm không si, ta biết tâm không si. Tâm chuyên chú, ta biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, ta biết tâm tán loạn. Tâm đại hành, ta biết tâm đại hành. Tâm không đại hành, ta biết tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, ta biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, ta biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định, ta biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định, ta biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát, ta biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, ta biết tâm không giải thoát!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… các trú xứ không tịnh.
Này các Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo có ước nguyện:“Mong rằng ta nhớ đến các đời sống của quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, một trăm đời một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp, ta nhớ rằng: “ Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh chỗ nọ Tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này . Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây !”. Tỳ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật …trú xứ không tịnh.
Này các Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo có ước nguyện: “ Mong rằng với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, ta thấy được sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kè bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng . Các Tôn giả chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến, những người này sau khi thân hoại mệnh chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Còn các Tôn giả, chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, về lời và về ý, không phỉ bán các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiế , những người này sau khi thân hoại, mạng chung, được sanh lên các thiện chú, cõi Trời trên đời này. Như vậy ta với thiên nhãn thuần tịnh , siêu nhân , thấy sự sống chết của chúng sanh, biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ , kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh , đều do hạnh nghiệp của họ !”. Tỳ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật …trú xứ không tịnh.
Này các Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo có ước nguyện : “ Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự tri, tự chứng, ta chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát , tuệ giải thoát không có lậu hoặc!” Tỳ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh thích sống tại các trú xứ không tịnh”.
Vài nơi trong kinh tạng Pàli 2, Đức Phật dùng hình ảnh con gà mái kiên trì ấp trứng để lưu nhắc các Tỷ-kheo chuyên tâm trong vấn đề thực hành đạo lý giải thoát. Vì chỉ có thái độ kiên trì tu tập và thực hành đạo lý giải thoát mới giúp cho người xuất gia thành tựu sở nguyện tự độ và độ tha. Người xuất gia có thể khởi lên các mong ước chính đáng nhưng phải chuyên tâm tu tập giáo lý giới-định-tuệ thì mọi ước nguyện mới thành tựu. Tựa như con gà mái thường xuyên ấp nằm, ấp nóng, ấp dưỡng các quả trứng một cách kiên trì và đúng đắn thì đến lúc các con gà con sẽ tự phá vỡ vỏ trứng và thoát ra ngoài một cách an toàn, dù cho nó có khởi ý muốn, mong các chú gà con sẽ nở ra an toàn hay không.
Chú thích:
1. Kinh Ước nguyện, Trung Bộ.
2. Kinh Tâm hoang vu, Kinh Hữu học, Trung Bộ; Kinh Sự tu tập, Tăng Chi Bộ.
Nguyên Châu
Cảm Niệm Ngày Hiến Chương Nhà Giáo Việt Nam
Chư vị Ân Sư là người nguyện dành trọn cuộc đời mình để truyền trao chân lý, cho chúng con thấu đạt thực tại nhiệm mầu. Thầy là hòn đảo bình an cho chúng con về nương tựa qua bao ngày trôi dạt, lang thang, dập dồn biển cả.
Sống trên đời cần có “một chữ tình để duy trì thế giới và một chữ tài để tô điểm càn khôn”. Chữ tình ấy chúng con đã vay mượn không biết bao nhiêu người thân yêu ngay từ tấm bé, có trả hết một đời người cũng không đủ, nhưng còn chữ tài nếu không nhờ có sự dạy dỗ, dìu dắt của những bậc ân sư, chắc hẳn chúng con đã đánh mất nó trong cuộc hành hương của kiếp người đầy phong ba này. Và ngày Hiến Chương nhà giáo 20-11, không chỉ là ngày lễ dành riêng cho thầy và trò, mà nó đã hiển nhiên trở thành một truyền thống văn hóa dân tộc, nét đẹp của tinh thần tôn sư trọng đạo. Nét đẹp của phẩm chất đạo đức con người Việt Nam vốn có lâu đời với truyền thống “ ẩm thủy tri nguyên” tạo nên những mạch sống luôn tuôn chảy trong cuộc sống của mỗi con người:
“Tri thức một đời Thầy dạy dỗ,
Ân tình Thầy muôn thuở con khắc ghi.”
Chính vì thế, vào những ngày này trên khắp mọi nẽo đường của đất nước, tất cả những người học trò chịu ơn giáo dưỡng đều vận hết lòng mình để hướng về chư vị Ân Sư khả kính. Và nhờ đó mà tất cả mọi người có được những giây phút lắng đọng tâm tư, dừng lại những dòng chảy của cuộc sống. Cùng hướng về những người thầy người cô của mình, có những người đã và đang dạy dỗ chúng ta, có những người đã đi xa, có những người đã khuất, có những người ta chỉ nhớ thoáng qua, và có những người ta chưa một lần nhớ đến trong đời.
Chúng con lớn lên chào đón vinh quang trong cuộc sống, trưởng thành trong thân phận làm người, thành quả đó được khởi nguồn từ những lời dạy bảo ân cần của chư vi Ân Sư. Nếu như những kiến thức thế học giúp chúng con hoàn thiện tri thức của mình thì những kiến thức Phật học lại là chất liệu để chúng con chuyển hóa thân tâm hướng đến đời sống an lạc.
“ Lời thầy như nắng ban mai,
Cho con thức giấc mộng dài trần gian.
Lời thầy như gió trên ngàn,
Cho con bay giữa muôn vàn khổ đau.”
Chư vị Ân Sư là người nguyện dành trọn cuộc đời mình để truyền trao chân lý, cho chúng con thấu đạt thực tại nhiệm mầu. Thầy là hòn đảo bình an cho chúng con về nương tựa qua bao ngày trôi dạt, lang thang, dập dồn biển cả. Thầy là suối từ thơm mát xoa dịu những tâm hồn khô cằn, héo úa của chúng con giữ sa mạc nắng cháy cuộc đời. Với sự tận tụy vô bờ bến, Thầy đem ánh sánh chân lý về soi rọi đêm tối trong tâm hồn của mỗi chúng con.
“ Con quỳ xuống với lòng thành chánh niệm,
Lạy ân Thầy đã một thuở khai tâm.”
Hôm nay, nhân ngày lễ thiêng liêng này, chúng con xin được hướng về chư vị Ân Sư, người lái đò thầm lặng đã chuyên chở chúng con cùng bao nhiêu thế hệ Tăng – Ni trưởng thành khôn lớn. Chúng con xin kết những đóa hoa lòng tinh khôi nhất dâng lên chư vị Ân Sư khả kính để biểu hiện sự tôn kính từ nơi trái tim, để nhịp đập của trái tim là sự hiện hữu của tình thương, là lòng biết ơn sâu sắc nhất của chúng con. Chúng con xin nguyện sẽ cố gắng trao tâm luyện trí để trở thành một thành viên có ích cho đạo Pháp và không cô phụ lòng tin yêu mà chư vị Ân Sư đã dành cho chúng con.
“ Thầy đi trước con bước theo sau,
Vàng thiêng chánh pháp nguyện màu khắc ghi.”
Chúng con nguyện Tam Bảo thường gia hộ cho chư vị Ân Sư giới thể khang an, tuệ đăng bất tuyệt mãi là bóng cây, mãi là con thuyền thanh lương để chúng con nương tựa trên bước đường tu thân giải thoát. Đôi lời cảm niệm ngưỡng mong trên chư vị thân giáo sư chứng tri lòng thành của chúng con.
Thích Giác Đức
( Khoa Triết Học Phật Giáo Khoá 8)
Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012
BỨC THÔNG ĐIỆP MUÔN ĐỜI
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời, để làm cho con người cảm thấy sức mạnh lớn lao của khổ và làm cho họ nhận thức rõ về khổ. Ngài đã nói dứt khoát với chúng ta những gì cần, ngài đã giải thích và những gì không cần, ngài đã không giải thích.
Một số người thích gọi giáo lý của Đức Phật là một tôn giáo hoặc triết học; hoặc cả tôn giáo và triết học. Tuy nhiên, nói đúng hơn Phật giáo là một phương thức sống. Nhưng điều này không có nghĩa là Phật giáo không có nghĩa gì khác hơn là khuôn mẫu đạo đức. Trái lại Phật giáo chính là một đường hướng giáo dục trí thức, tinh thần và đạo đức để dẫn đến sự giải thoát tâm một cách hoàn toàn. Chính Đức Phật gọi lời dạy của Ngài là "Pháp luật" nghĩa là giáo pháp và giới luật. Trong ý nghĩa chính xác nhất, Phật giáo không thể gọi là một tôn giáo, vì nếu là tôn giáo thì có nghĩa là "Phạm vi hoạt động dựa vào niềm tin, lòng tôn kính và ứơc muốn làm vui lòng đấng quyền năng; việc thực hành các nghi lễ hoặc sự tuân thủ bao hàm điều này …, sự nhận thức về phần con người trong những năng lực siêu nhiên có thể thấy như là có quyền năng kiểm soát số phận con người, và có quyền được mọi người tuân phục, kính trọng và thờ phượng" Phật giáo dĩ nhiên không phải là một tôn giáo như vậy.
Trong tư tưởng Phật giáo, không có sự tồn tại của một đấng tạo hóa ở bất cứ hình thức nào có quyền năng thưởng phạt hành động tốt, xấu của chúng sanh do đấng thần linh tạo ra. Người Phật tử quy y với Đức Phật (Buddham saranam gacchami) thì không nghĩ rằng sẽ được Ngài cứu độ. Đức Phật chỉ là một bậc đạo sư chỉ đường và hướng dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát. Chẳng hạn như bảng hiệu giao thông ở các ngã ba đã chỉ đường, người du lịch phải nương theo nó để đi đến đích. Dĩ nhiên những bảng hiệu này sẽ không chở vị ấy đến nơi mong muốn. Cũng như vị bác sĩ chẩn đoán, kê toa và bịnh nhân phải theo sự chỉ dẫn của toa thuốc mới hết bịnh. Thái độ của Đức Phật đối với các đệ tử của Ngài thì cũng giống như thái độ của bậc lương y hoặc bậc thầy từ bi và sáng suốt vậy.
Tôn kính những bậc giác ngộ, những bậc có tâm hồn cao thượng có thể hiểu sâu sắc về thực tại, đã xóa sạch vô minh và nhổ tận phiền não là sự tôn kính cao nhất. Người thấy được chân lý là người hộ trì chân lý nhưng Phật tử đã không để tâm đến việc này. Họ chỉ bày tỏ lòng tôn kính đối với những bậc đã giác ngộ chân lý vì đã chỉ con đường đưa đến hạnh phúc và giải thoát chân chánh. Hạnh phúc là cái mà chính mình phải tự đạt được, không ai có thể khiến cho mình tốt hơn hoặc xấu hơn.
"Thanh tịnh hay nhiễm ô là tùy mình
Không ai có thể làm thanh tịnh hoặc nhiễm ô người khác"
1- TÌM CẦU CHÂN LÝ
Khi nằm giữa hai cây Ta-la song thọ ở Kushinagar, trước khi nhập Niết-bàn, Đức Phật thấy hoa rơi xuống cúng dường ngài, Ngài mới bảo tôn giả A-nan rằng:
"Này A-nan, những ai chánh hạnh, sống đúng chánh pháp, đó là những người thật xứng đáng tôn trọng cung kính Đức Như Lai với lòng tôn kính bậc nhất. Vì vậy này A-nan, hãy tu tập, hãy sống theo chánh hạnh và chánh pháp."
Lời sách tấn này của Đức Phật về việc sống đúng chánh pháp, tỏ cho thấy rằ?g điều quan trọng bậc nhất là tu tập các đức hạnh của thân khẩu ý, chớ không chỉ dâng hoa cúng dường đến các bậc giác ngộ. Sự nhấn mạnh ở đây là sống đời sống chánh hạnh.
Đối với vấn đề Phật giáo có phải là triết học hay không thì cần dựa vào định nghĩa của thuật từ này và liệu nó có thể đưa ra một định nghĩa bao quát tất cả các hệ thống tư tưởng triết học đang hiện hữu hay không, điều này đang còn đầy nghi vấn.
Theo từ nguyên học, triết học có nghĩa là yêu thích (to Love, Gr. philein) và trí tuệ (Wisdom, Gr. Sophia) "Triết học bao hàm cả việc truy tầm trí tuệ và trí tuệ đã đạt được." Trong tư tưởng Ấn Độ, triết học được gọi là darsana nghĩa là quán sát chân lý. Nói tóm lại, mục đích của triết học là tìm ra chân lý tối hậu.
Phật giáo cũng chủ trương việc truy tầm chân lý, chớ không phải chỉ là ở lý thuyết suông, thuần lý và chỉ đòi hỏi và chứa đựng kiến thức. Đức Phật nhấn mạnh khía cạnh tu tập, áp dụng kiến thức vào đời sống – quán sát kỹ lưỡng đời sống.
Đối với Đức Phật, toàn bộ lời dạy của ngài chỉ là sự hiểu biết về bản chất hiện hữu của các pháp hiện tượng và sự trau dồi chánh hạnh để đưa đến trạng thái tâm hoàn thiện. Đây là triết học của Phật giáo.
Trong Phật giáo, trí tuệ là quan trọng bậc nhất, vì sự thanh tịnh đi ngang qua trí tuệ, ngang qua sự hiểu biết. Nhưng Đức Phật không bao giờ tán thán riêng về trí tuệ. Theo Ngài, trí tuệ (tri kiến) phải đi đôi với sự thanh tịnh tâm và giới hạnh (vijjacaranasam panna). Trí tuệ đạt được bởi sự hiểu biết và sự phát triển các đặc tính tâm và tâm là trí tuệ ưu việt (bhavanamaya panna). Đó chính là kiến thức tích tụ chứ không phải là lý thuyết suông. Vì vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo không phải chỉ là tình thương, cũng không phải bao gồm tìm kiếm sau trí tuệ, cũng không phải là chỉ cầu nguyện (mặc dù chúng có ý nghĩa và liên quan tới nhân loại), mà là sự khuyến khích áp dụng thực tiển lời dạy để trở nên vô tham, giác ngộ và giải thoát.
Mặc dù chúng ta gọi lời dạy của Đức Phật là Phật giáo, vì bao gồm học thuyết "ologies" và chủ nghĩa "isms." Nó thực sự không có vấn đề những nhãn hiệu mà chúng ta dán cho nó. Đặt nó là tôn giáo, triết học, Phật giáo hay bất cứ tên gì mà ta thích, thì những nhãn hiệu này có ý nghĩa nhỏ cho những người đi tìm chân lý và giải thoát.
Khi Upatissa và Kolita (hai vị này sau đó trở thành đại đệ tử của Đức Phật là Trưởng lão Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên) đang lang thang đi tìm con đường giải thoát. Upatissa đã gặp Tỳ-kheo Assaji là một trong năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật đang đi khất thực. Upatissa rất ngạc nhiên trước vẻ đoan nghiêm, trầm tĩnh và đầy siêu thoát của vị tôn giả này. Nghĩ rằng chưa phải lúc để hỏi han, Upatissa liền đi theo Assaji về nơi nghỉ của ngài. Sau đó Upatissa chào ngài và hỏi về giáo lý thầy của Assaji. Tôn giả Assaji khiêm tốn nói rằng "Tôi không thể giải nghĩa nhiều về pháp và luật, nhưng tôi có thể nói cho bạn nghe ý nghĩa tóm tắt." Upatissa đã trả lời một cách thích thú "Tốt lắm, này bạn, xin hãy nói ít nhiều, những gì tôi muốn chỉ là cốt lõi, không cần nhiều lời." Rồi tôn giả Assaji đáp lại bằng một bài kệ đơn giản nhưng bao quát toàn bộ giáo lý duyên khởi của Đức Phật:
"Bất cứ cái gì do nhân duyên sanh,
cái đó Như lai giải thích là nhân,
và Như lai cũng giải thích sự đoạn diệt của chúng
Đây là lời dạy của bậc thánh tối thượng."
Upatissa ngay khi hiểu được ý nghĩa đã chứng được trạng thái giác ngộ đầu tiên (Tư-đà-hoàn), hiểu rõ rằng "bất cứ cái gì được sanh ra, thì cũng sẽ bị hoại diệt."
2- BẬC ĐẠO SƯ THỰC TIỂN
Bậc đạo sư hướng dẫn chân chánh, thì sẽ đưa chúng ta đến chân giải thoát. Điều cần thiết ở đây là chỉ đúng và hiểu đúng. Chúng ta ngay cả có thể nhận được sự hướng dẫn từ thiên nhiên, cây cỏ, núi sông, vì có nhiều trường hợp con người đạt giác ngộ và giải thoát khỏi phiền não cấu uế, chỉ do thấy lá rơi, nước chảy, lửa rừng, đèn bị gió thổi tắt … điều này như đã chạm đúng chổ ngứa (tham công án) và vị ấy như chợt đốn ngộ bản chất vô thường của vạn pháp và họ liền giải thoát. Vâng ! Cũng giống như hoa sen chỉ đợi ánh nắng mặt trời, ngay khi mặt trời chiếu thì hoa sen liền nở và mang niềm vui đến cho mọi người.
Đức Phật không có quan tâm đến các vấn đề siêu hình, vì vấn đề siêu hình này chỉ làm rối sự thăng bằng tâm lý của con người. Giải pháp của vấn đề siêu hình học chắc chắn sẽ không giải phóng con người khỏi khổ đau và bất hạnh. Đó là lý do tại sao Đức Phật do dự khi trả lời những vấn đề như vậy và nhiều lúc Ngài không giải thích những điều mà thường bị nêu ra một cách sai lầm. Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời, để làm cho con người cảm thấy sức mạnh lớn lao của khổ và làm cho họ nhận thức rõ về khổ. Ngài đã nói dứt khoát với chúng ta những gì cần, ngài đã giải thích và những gì không cần, ngài đã không giải thích.
Một thời Đức Phật đang sống ở Kosambi (Allahabad) trong rừng Simsapa, Ngài cầm một ít lá trong tay và nói với các Tỳ-kheo rằng:
- "Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ sao cái nào nhiều hơn, lá Simsapa trong tay ta hay số lá ngoài rừng"
- "Bạch Thế Tôn, không nhiều là lá trong tay Thế Tôn và nhiều là lá ở trong rừng"
- "Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, nhiều là những gì ta đã giác ngộ hoàn toàn nhưng không tuyên bố, không giảng cho các ông. Tại sao, này các Tỳ-kheo, ta đã không tuyên bố chúng, giảng dạy chúng. Này các Tỳ-kheo, những điều đó thực sự không có ích, không cần thiết cho đời sống thanh tịnh, chúng không đưa đến vô tham, đoạn diệt, định tĩnh, toàn giác và giác ngộ Niết-bàn. Này các Tỳ-kheo, đó là lý do tại sao ta không giảng giải pháp này và những gì, này các Tỳ-kheo, ta đã giảng gỉai?
Đây là khổ là điều ta đã giảng giải
Đây là nguyên nhân của khổ là điều ta đã giảng giải
Đây là sự chấm dứt khổ là điều ta đã giảng giải.
Đây là con đường dẫn đến sự đoạn diệt đau khổ là điều ta đã giảng giải."
- "Và tại sao, này các Tỳ-kheo, ta đã giảng giải những chân lý này? Vì chúng thực sự hữu ích, thiết thực cho đời sống thanh tịnh, chúng đưa đến vô tham, vô sân, đoạn diệt, định tĩnh, toàn giác và giác ngộ Niết-bàn. Này các Tỳ-kheo đó là lý do tại sao ta đã giảng giải chúng."
Đức Phật đã tuyên bố những lời như vậy, tuy nhiên một vài học giả không đánh giá đúng thái độ này của Đức Phật, họ nghi ngờ sự giác ngộ của Ngài và gán cho Ngài là người theo thuyết bất khả tri (không thể biết). Các nhà học giả luôn tranh luận và tư biện. Và những tranh luận này không phải là những vấn đề của hôm nay và ngày mai, mà chúng đã phổ biến ngay trong thời Đức Phật, chẳng hạn Ngài Sakuludayi (bậc du hành khất sĩ) đã hỏi về quá khứ và tương lai và đã được Đức Phật trả lời minh bạch rằng:
"Hãy để quá khứ thuộc về quá khứ.
Hãy để tương lai thuộc về tương lai."
Ta sẽ dạy ông pháp này:
"Khi cái này có thì cái kia có
Khi cái này sanh thì cái kia sanh
Khi cái này không thì cái kia không
Khi cái này diệt thì cái kia diệt."
Đây là toát yếu giáo lý duyên khởi của Phật giáo (Paticca-samuppada) và điều này hình thành nền tảng của Tứ đế, khái niệm trung tâm của Phật giáo.
3- BẬC LƯƠNG Y VÔ SONG
Đức Phật được biết như là bậc lương y tuyệt vời (bhisakko), nhà phẫu thuật thượng hạng (sallakatto-anuttaro).
Đức Phật thực sự là bậc lương y vô song. Phương pháp trình bày về Tứ diệu đế của Đức Phật có thể so sánh với phương pháp của một bậc lương y. Giống như vị lương y, đầu tiên Đức Phật chẩn đoán bịnh, kế đến xét đoán nguyên nhân phát sanh ra bịnh, rồi xem xét sự chuyển biến của nó để cuối cùng áp dụng cách điều trị.
Khổ (dukkha) là bịnh. Khát ái (tanha) là nguyên nhân sâu xa của bịnh (samudaya), ngang qua việc loại bỏ khát ái thì bịnh cũng được diệt trừ và đó là hết bịnh (nirodha=Niết-bàn). Bát chánh đạo là phương thuốc chữa bịnh.
Bịnh nhân nên nhận biết sự khổ sở của mình, nên chú ý nó đừng để nó trở nên khó trị. Vị ấy nên nghĩ cách diệt trừ nguyên nhân của nó, với sự suy nghĩ này vị ấy đi tới gặp vị lương y tài giỏi để có thể chẩn đoán và điều trị. Ngang qua hiệu quả của việc chữa trị, bịnh nhân thoát khỏi đau đớn và đó là phương pháp điều trị. Vì vậy, chúng ta không nên làm lơ khổ mà chúng ta cần phải biết rõ nó, vì nó là bịnh trầm kha (abhinneyya) (Khổ đế). Khát ái là nguyên nhân phải được loại bỏ (pahafabba) (Tập đế). Bát chánh đạo phải được tu tập trau giồi (bahavetabba) vì nó là cách chữa bịnh (Đạo đế). Với sự biết rõ khổ, với sự loại bỏ khát ái ngang qua thực tập Bát chánh đạo này, sự giác ngộ Niết-bàn (saccikatabba) (Diệt đế) là chắc chắn. Đó là phương pháp điều trị hoàn toàn không chấp thủ và giải thoát khỏi khát ái.
Câu trả lời thú vị của Đức Phật cho Sela, một người Bà-la-môn đã nghi ngờ về sự giác ngộ của Đức Phật như sau:
"Ta biết những gì cần biết, những gì cần tu tập ta đã tu tập. Những gì cần từ bỏ ta đã từ bỏ. Từ đây, này Bà-la-môn, ta là Phật, là bậc thức tỉnh."
Vì những chân lý này liên quan mật thiết với nhau, cho nên thấy một hoặc nhiều về Tứ đế thì bao hàm các chân lý khác. Đối với người chối bỏ khổ đau, thì con đường đưa đến giải thoát khổ đau trở nên vô nghĩa. Tóm lại, phủ nhận một đế tức phủ nhận ba đế kia và toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
Một nhà duy vật tín thành sẽ nói: "Tôi không muốn nuốt những điều vô nghĩa này." Lời nói này thật là không sáng suốt, và gây hoang mang. Nhưng đối với những người cố gắng trau dồi lý tưởng cuộc đời hiện thực, thì điều này không có gì hoang đường, không phải là chuyện tưởng tượng để nói với người thiếu sáng suốt.
Đối với những người mà quan niệm thế giới hữu tình từ góc độ đúng đắn, nghĩa là với sự nhận thức khách quan thì mỗi điều sẽ trở nên rất rõ ràng và sẽ biết chỉ có một vấn đề lớn trong cuộc đời đó là khổ. Như Đức Phật đã nói thế gian thiết lập trên sự khổ, được xây dựng trên sự khổ (dukke loko patithito). Nếu bất cứ điều gì trở thành vấn đề thì điều đó là khổ, là không như ý, hoặc nếu chúng ta thích thì đó là mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn giữa tham muốn của chúng ta với các sự thật khổ đau của cuộc đời.
Đối với vấn đề này, chúng ta có thể liệt kê các tên khác nhau: những vấn đề về kinh tế, xã hội, chính trị, tâm lý và ngay cả tôn giáo. Tất cả những vấn đề này có phải xuất phát từ một vấn đề duy nhất là khổ (dukkha) có nghĩa là bất như ý hay không? Nếu không có bất như ý tại sao chúng ta lại cố để giải quyết chúng? Việc giải quyết vấn đề có bao gồm việc giảm bớt sự bất như ý này không? Mọi vấn đề đều gây ra sự bất như ý và sự nỗ lực này là để chấm dứt chúng, nhưng chúng thường nảy sinh lẫn nhau. Nguyên nhân thường không phải từ bên ngoài mà chính trong vấn đề đó là sự chủ quan. Chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta đã giải quyết những vấn đề đến triệt để, nhưng chúng thường nảy ra trong những hình thức khác đa dạng hơn. Dường như chúng ta liên tục bị đối mặt với những cái mới và chúng ta cố gắng những nỗ lực mới để giải quyết chúng. Vì vậy, khổ và việc giải quyết khổ đã liên tục không ngừng. Như vậy bản chất của khổ là đặc tính phổ biến của chúng hữu tình. Các khổ nảy sinh và tiêu diệt chỉ là sự tái hiện trong những hình thức khác. Chúng vừa là thân vừa là tâm và vài người có khả năng chịu đựng cái này hơn là cái khác và ngược lại, có người chịu đựng cái khác hơn là cái này.
4- SỰ THẬT CUỘC ĐỜI
Theo Phật giáo đời sống là khổ và khổ thống trị suốt cuộc đời. Đó chính là vấn đề nền tảng của cuộc đời. Thế gian này là khổ và ưu phiền, không ai tránh khỏi sự ràng buộc này của khổ. Đây là chân lý phổ quát mà người không có nhận thức (tức thấy các pháp như thật) có thể phủ nhận. Tuy nhiên, giác ngộ sự thật phổ quát này thì không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn hạnh phúc. Đức Phật, bậc thoát khổ, không bao giờ phủ nhận hạnh phúc của cuộc đời khi Ngài nói về tính phổ quát của khổ. Trong Tăng chi bộ kinh có một bản liệt kê dài về những hạnh phúc mà chúng sanh có thể thọ hưởng.
Trả lời cho Mahali Licchavi, Đức Phật nói rằng:
Này Mahali, nếu sắc thanh hương vị xúc pháp (như ngươi đã biết những trần này là đối tượng của các căn con người) đều bị chi phối bởi khổ, bủa vây bởi khổ, hoàn toàn mất an lạc hạnh phúc thì chúng sanh sẽ không có sự thích thú trong các trần này. Nhưng này Mahali, bởi vì có dục lạc và hạnh phúc trong các trần này mà chúng sanh đã thích thú và bám chặt lấy chúng, bởi vì sự tham đắm này mà họ làm ô nhiễm chính họ.
Ngang qua các căn, con người tham đắm các trần, các dục lạc (assada) và thọ hưởng các dục lạc ấy. Đây là một sự thật không thể chối bỏ vì chúng ta là người đang trải qua nó. Tuy nhiên không có các trần vui thú, cũng không có sự cảm thọ đang diễn ra vì chúng chịu sự thay đổi liên tục. Bấy giờ khi một người không thể nắm giữ hoặc bị mất các dục lạc mà vị ấy đang thọ hưởng thì sẽ trở nên sầu bi, ưu não. Vị ấy không thích sự buồn tẻ, trong sự thiếu vắng các điều vui thích và sẽ đi tìm niề? vui mới, giống như súc vật đi tìm cỏ tươi, nhưng những niềm vui mới này cũng đang lướt qua và biến mất. Vì vậy tất cả những lạc thú, liệu chúng ta có thích thú nó hay không? Khi mà nó mở đầu và chấm dứt với khổ đau chán chường. Tất cả những lạc thú trần gian đang lướt qua như viên thuốc độc bọc đường, chúng lừa gạt và hại chúng ta.
Một món ăn không khoái khẩu, một thức uống không vừa lòng, một cử chỉ không thân thiê? và hàng trăm những chuyện khác mang khổ đau và bất như ý đến với chúng ta, dù Phật tử hay không phật tử, giàu hay nghèo, sang trọng hay thấp hèn, thông minh hay ngu dốt. Nhà đại văn hào Shakespeare chỉ nói lại những lời của Đức Phật khi ông ta viết trong tác phẩm Hamplet "Khi buồn rầu đến, chúng không đến một mình mà đến cùng với những nỗi khổ khác" (Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí).
Bấy giờ nếu con người không nhìn thấy các khía cạnh này của cuộc đời thì sự phù du của lạc thú này sẽ làm vị ấy trở nên thất vọng và thậm chí có thể hành xử một cách ngu ngốc, không có suy nghĩ và xét đoán cũng như mất thăng bằng trong tâm. Đây là sự nguy hiểm, hậu quả xấu ác (adinava). Nhân loại thường đối diện với hai mặt của cuộc đời. Nhưng con người nỗ lực để từ bỏ sự tham đắm sâu nặng đối với các pháp hữu và vô tình, nhìn cuộc sống với sự buông xả, thấy các pháp đúng như nó đang là. Việc tu tập trau giồi giúp cho vị ấy tự tại đối với các thăng trầm của đời, vị ấy có thể mỉm cười khi các pháp bất như ý đến và giữ vững tâm thoát khỏi tất cả niềm yêu ghét … vị ấy không quan tâm điều gì khác ngoại trừ sự giải thoát (nissarana). Ba điều này – lạc (assada), khổ (adinava), và giải thoát (nissarana) – là những thực tế hiện hữu, bức tranh thật của cái mà ta gọi là cuộc đời.
Đức Phật tiếp tục trả lời các câu hỏi của Mahali:
"Này Mahali, nếu sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp bị chi phối bởi lạc, bủa vây bởi lạc, không bị trói buộc với khổ, thì sẽ không bị nhàm chán với các trần. Nhưng này Mahali, vì có khổ và không có lạc thú lâu dài trong các trần này, chúng sẽ thấy nhàm chán, do bị nhàm chán nên không có niềm vui và chấp thủ trong chúng. Do không có chấp thủ thì chúng sẽ tự thanh tịnh."
Khổ có ba phương diện:
a. Khổ khổ (dukkha-dukkhata): là hình thức khổ thông thường dễ thấy nhất.
b. Hành khổ (sankhara-dukkhata): là sự không thỏa mãn đối với các pháp hữu vi.
c. Hoại khổ (viparinama-dukkhata) là sự khổ do vô thường.
Tất cả khổ về thân và tâm như là sanh, lão, bịnh, tử, phải tiếp xúc với những người và hoàn cảnh trái ý, phải xa lìa những người và hoàn cảnh mến yêu, không được những gì mà mình ưa muốn, buồn thương đau khổ tất cả những hình thức khổ thể xác và tinh thần. Tóm lại tám điều khổ này gọi là khổ khổ. Vì nó dễ hiểu và là kinh nghiệm thông thường trong cuộc sống hằng ngày.
Về phương diện triết lý, hành khổ là quan trọng nhất trong khổ đế. Để hiểu nó, ta cần giải thích và phân tích cái mà ta gọi là "tôi," tức là danh sắc (nama-rupa), là một sự phối hợp những năng lực hằng biến của tâm lý và vật lý được chia thành năm nhóm hay năm uẩn (panca-khandhakka). Rupa là sắc bao gồm uẩn thuộc về thân và namma là danh bao gồm 4 uẩn còn lại thuộc về tâm. Sự kết hợp năm uẩn này tạo thành một chúng hữu tình. Đức Phật dạy "Tóm lại, năm uẩn trói buộc là khổ"(Samyutta, V, PTS, p. 421).
Một chúng sanh và thế giới kinh nghiệm thì bị biến đổi liên tục. Chúng tồn tại và mất đi. Tất cả sự quay cuồng, không có một vật gì thoát khỏi sự thay đổi liên tục không ngừng nghỉ, và bởi vì bản chất tạm bợ này, thì không có gì thật sự là niềm vui mãi mãi. Có hạnh phúc nhưng chỉ trong chốc lát, nó chóng tan như bọt tuyết và tạo nên sự buồn chán.
Hoại khổ là loại khổ bất như ý do sự vô thường đem đến. Mọi cảm giác vui sướng mà con người có thể tìm thấy thì dễ mờ nhạt và biến mất. Như Đức Phật đã nói ngay cả các cảm thọ mà thiền giả đạt được do chứng đắc tứ thiền cũng thuộc về loại hoại khổ này. Bởi vì chúng vô ngã (anicca), khổ (dukkha), vô thường (viparinamadhamma). Nhưng khổ được đề cập không nhất thiết là khổ đau con người đang chịu đựng mà ý của Đức Phật ở đây là các pháp vô thường đều là khổ.
Chúng ta bị vô thường trong từng sát na và sự biến đổi này gây ra khổ; vì bất cứ cái gì vô thường đều là khổ (yadaniccam tam dukkham) đều có nghĩa là không có hạnh phúc lâu dài.
Đức Phật không tỏ lộ sự bi quan khi Ngài giải thích chân lý khổ cho các đệ tử và xem đấy là một trở ngại cho sự thực hiện chân lý. Ngược lại Ngài luôn luôn vui vẻ mỉm cười để trình bày rằng:
"Thật sự chúng ta đang sống đầy hỷ lạc,
Chúng ta không có nhiều gánh nặng.
Với hỷ lạc này, chúng ta được nuôi dưỡng,
Giống như chư thiên sáng chói."
Đức Phật khuyến khích các đệ tử không nên bi quan, buồn rầu, phiền muộn, u ám mà phải trau giồi đức tính hỷ (piti) là yếu tố chính yếu để đến đạt giác ngộ. Việc nghiên cứu đúng đắn về Phật giáo sẽ nói với chúng ta rằng đây là thông điệp lạc quan và đầy hy vọng đang chiếu sáng, chứ không phải là một triết lý bi quan yếm thế.
Nguyên tác: HT. Piyadassi
Thích Nữ Giới Hương dịch
[Phóng dịch từ nguyên tác tiếng Anh "The Timeless Message," của HT. Piyadassi đăng trong tác phẩm
"Các Viên Ngọc của Trí Tuệ Phật Giáo" (Gems of Buddhist Wisdom), CBBEF, Taiwan, 1996, trang 35-49].