Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Những con số bảy trong kinh tạng Pali (Như Quang)

Những con số bảy trong kinh tạng Pali

VỀ ĐỨC PHẬT:
- Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ. Tổng cộng trong 7 a-tăng-kỳ có 125.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
- Theo Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bổn, khi ra khỏi thai bào, Đức Bồ Tát đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước.
- Hoàng hậu Maya chỉ làm mẹ được bảy ngày rồi qua đời.
- Khi hoàng tử Siddhattha được năm ngày, có tám vị đạo sĩ Bà La Môn lỗi lạc đến dự lễ Quáng Đính, bảy vị đưa hai ngón tay lên nói rằng hoàng tử hoặc sẽ thành vị hoàng đế lỗi lạc nhất thế gian hoặc sẽ thành Phật, chỉ có một vị nói hoàng tử sẽ thành Phật.
- Khi hoàng tử Siddhattha theo dự lể Hạ điền với vua cha, ngài ngồi tham thiền dưới gốc cây trâm và đắc được sơ thiền lúc mới vừa bảy tuổi.
- Sau khi thọ dụng bát cháo do bà Sujata dâng cúng, đức Bồ Tát đã nhịn đói suốt bảy tuần để trải qua bốn mươi chín ngày yên lặng suy niệm dưới cội Bồ Đề.
- Vào tuần lễ thứ sáu sau ngày thành đạo, Đức Phật di chuyển từ cây Ajapala qua cây Mucalinda để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát thì bổng nhiên có một trận mưa giông kéo tới. Mãng xà vương Mucalinda từ ổ chui ra quấn bảy vòng quanh mình đức Phật để che mưa gió cho ngài.
- Một trong ba mươi hai tướng tốt của đức Phật là bảy chỗ tay, chân, vai, và mình được đầy đặn.
- Trong một tiền kiếp bị thất niệm với một hoàng hậu, đức BồTát đã nằm suốt bảy ngày liền chịu đói khát, toàn thân bị siết chặt trong vòng vây của nữ sắc.
- Trong kiếp làm con Công chúa, Bồ Tát không bị sa bẩy trong suốt bảy ngàn năm.
- Đức Phật đặt cho năm trăm thanh niên Bà la Môn kiêu mạn câu hỏi "Thời gian ăn hữu tình. Ăn tất cả, ăn mình. Ai là hữu tình ấy. Ăn cả đến thời gian. Ai là người nấu chín. Thời gian, nấu hữu tình?" và cho họ thời gian bảy ngày để trả lời. Sau bảy ngày họ vẫn không tìm được câu trả lời nên Bồ Tát đã giải thích cho họ và đã nhiếp phục được sự kiêu mạn của họ.
- Những ai được Đức Thế Tôn hỏi ba lần mà không trả lời đầu sẽ bể ra bảy mảnh.
- Bảy vị Phật quá khứ là Đức Phật Vipashyin, Shakyamuni, Shikhin, Vishvabhu, Krakucchanda, Kanakamuni, and Kashyapa.
- Bồ tát Maha Janaka bơi trên biển bảy ngày nhưng khi nhìn thấy trăng tròn, biết là ngày uposatha nên dùng nước biển xúc miệng và nguyện thọ trì bát quan trai giới.
- Khi Bồ tát Dhammapala được bảy tháng, vì ganh tỵ với tình thương của hoàng hậu Canda dành cho ngài, đức vua Mahapatapa đã ra lệnh chặt tay, chặt chân con mình nhưng Bồ tát vẫn không hề than khóc.
- Trong các chuyện tiền thân, Đức Bồ Tát làm đại thần bảy lần.
VỀ KINH A TỲ ĐÀM VÀ CÁC PHÁP PHẬT:
- Kinh Abhidhamma có bảy bộ (Dhammasangani, Vibhanga, Dhatukatha, Puggalapannatti, Kathavatthu, Yamaka, và Patthana)
- Đức Phật thuyết giảng bộ Kathavatthu trong mười ba ngày, có bảy mươi triệu chư thiên đắc đạo.
- Đức Phật thuyết giảng bộ Yamaka trong mười tám ngày, có bảy mươi triệu chư thiên đắc quả.
- Nghĩa của chế định có bảy cách là: hình thức, hiệp thành, chúng sanh, Phương hướng, hư không, thời tiết, và tiêu biểu.
- Tâm lộ nào có bảy loại tâm khách được gọi là tâm lộ ngũ môn cảnh rất lớn.
- Lộ nhãn môn cảnh rất lớn có bảy chặng là: khai môn, nhãn thức, tiếp thâu, quan sát, đoán định, đổng lực, và na cảnh.
- Tâm quả bất thiện có bảy: Tâm nhãn thức thọ xã quả bất thiện, tâm nhĩ thức thọ xã quả bất thiện, tâm tỷ thức thọ xã quả bất thiện, tâm thiệt thức thọ xã quả bất thiện, tâm thân thức thọ xã quả bất thiện, và tâm thiếp thâu và tâm quan sát quả bất thiện.
- Sở hữu biến hành có bảy thứ: sở hữu xúc, sỡ hữu thọ, sở hữu tưởng, sở hữu tư, sở hữu định (nhất hành), sở hữu mạng quyền và sở hữu tác ý.
- Danh pháp chỉ tồn tại một sát na, sắc pháp có tuổi thọ gấp 17 lần danh pháp.
- Bảy cõi vui dục giới là cõi người và 6 cõi trời dục giới.
- Có bảy loại khổ đau là: sanh, già, đau, chết, thương phải xa, ghét phải gần, và mong cầu không được.
- Tâm tham có thể tạo ra bảy ác pháp là: trộm cắp, tà hạnh trong dục lạc, nói dối, nói lưỡng thiệt, nói nhảm nhí, tham ác và kiến ác.
- Tâm sân có thể tạo ra bảy điều ác là: sát sanh, trộm cắp thuộc thân ác hạnh, bốn ngữ ác hạnh (nói dối, nói lời hung dữ, nói lưỡng thiệt, nói nhảm nhí) và ý sân ác.
- Bảy pháp thanh tịnh là: giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, đoạn nghi kiến tịnh, đạo phi đạo tri kiến tịnh, tiến hành tịnh, tri kiến tịnh.
- Bảy thất giác chi là phân tích giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, và xả giác chi.
- Nhân sanh-khởi của Trạch-pháp giác-chi có bảy điều là: học hỏi pháp thâm sâu, sạch sẽ trong vật-dụng, quân-bình năm quyền, không thân-cận người vô trí, thân-cận bậc trí, quán-xét đúng đắn pháp thâm sâu, chú tâm suy-nghiệp về trạch-pháp ấy.
- Có bảy điều làm sanh-khởi và tăng-trưởng tịnh giác-chi: thọ-dụng vật-thực tốt., thời-tiết thích-hợp, điều hòa bốn oai-nghi, giữ tâm quân-bình, thân-cận với những người có tâm dung hòa, không thân-cận với người kiêu-mạn, có khuynh-hướng về sự tĩnh-lặng.
- Giác phần có bảy: tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ quyền, ngũ lực, thất giác chi, và bát chánh đạo.
- Năng lực thần thông có bảy loại đối tượng là: đối tượng hữu hạn, đối tượng đại hành, đối tượng quá khứ, đối tượng hiện tại, đối tượng vị lai, đối tượng bên trong, và đối tượng bên ngoài.
- Có bảy thân không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, và đứng thẳng như trụ đá. Bảy thân đó là: địa thân, thủy thân, hỏa thân, phong thân, khổ, lạc, và mạng.
- Bảy pháp ngủ ngầm là: ái dục tùy miên, ái hữu tùy miên, phẫn uất tùy miên, ngã mạn tùy miên, tà kiến tùy miên, hoài nghi tùy miên, và vô minh tùy miên.
- Bảy kiết sử là: tùy tham kiết sử, sân kiết sử, kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết sử, vô minh kiết sử.
- Bảy cõi tứ thiền là: cõi quảng quả, cõi vô tưởng, và năm cõi tịnh cư (vô phiền thiên, vô nhiệt thiên, thiện hiện thiên, thiện kiến thiên, và cõi sắc cứu cánh)
- Bảy pháp kỳ diệu là Papapatikutha citta: có tâm xa lánh điều ác xấu; Pasarana citta: có tâm rộng mở; Adhimutta kalakiriya: tâm nguyện đúng thời; Visesajanattam: đặc biệt khác phần đông; Tikalannu: biết rõ thời kỳ; Pajutikala: thời kỳ sanh ra; Manussa jatiyo: tái sanh trong cõi người.
- Bảy lợi ích của thiền Tứ Niệm Xứ là: tâm được thanh lọc, chấm dứt lo âu, phiền muộn, uất ức than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm, đạt Thánh đạo, và chứng ngộ Niết Bàn.
- Cuộc kết tập Tam tạng lần thứ nhất trong suốt thời gian bảy tháng mới hoàn thành đầy đủ Tam tạng và bộ chú giải.
VỀ CÁC ĐỆ TỬ, ĐẠI THÍ CHỦ VÀ CƯ SĨ VÀO THỜI ĐỨC PHẬT:
- Rahula xuất gia sa di lúc lên bảy tuổi.
- Ngài Ratthapala đã tuyệt thực bảy ngày để xin cha mẹ cho xuất gia.
- Ngài Sivali nằm trong bụng mẹ đến bảy năm, bảy ngày mới chào đời. Mẹ của ngài thỉnh chư Tăng làm phước suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy ngài hầu chuyện với đại đức Sariputta và xin xuất gia.
- Ngài Tissa do ác nghiệp đã tạo trong kiếp làm trụ trì một ngôi chùa đã bị tái sanh vào một làng chài và làng chài này đã vị hỏa hoạn bảy lần, bị vua phạt vạ bảy lần. Khi lên bảy tuổi ngài xuất gia sa di với ngài Sariputta.
- Tôn giả Mahakassapa bị bệnh tu định luôn 7 ngày để trị bệnh.
- Sa di Sopaka là vị sa di mới lên bảy tuổi đã được Đức Phật cho phép trở thành Tỳ khưu.
- Đại Đức Sa di Nirodha mới lên bảy tuổi đã tạo được đức tin đặc biệt nơi đức vua Asoka. Do đức tin này hàng ngày đức vua dâng cúng vật thực đến 600.000 tỳ khưu Tăng.
- Lạm dụng lòng tịnh tín của đức vua Asoka, nhiều tỳ khưu giả đã chung sống lẫn lộn với tỳ khưu thật trong chùa Asokarama đến bảy năm mới bị đức vua thanh lọc.
- Vua Asoka bị sanh làm ác thú trong bảy ngày.
- Đại thí chủ Visakha đắc quả dự lưu lúc vừa bảy tuổi.
- Trước khi vấn đạo ngài Na Tiên, vua Milanda đã giữ gìn cẩn trọng tám giới trong bảy ngày và giới đầu tiên là không hành vương sự trong bảy ngày.
- Vua Ðại Thiện Kiến, có đủ bảy món báu : xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu, tướng quân báu.
- Đức Phật thấy vua Suppabuddha sẽ bị đất rút trong bảy ngày.
- Bậc Thánh Nhập Lưu chỉ tái sanh cõi người hoặc cõi trời dục giới nhiều nhất là bảy kiếp.
- Một triệu phú gia ở Sàvatthi trong tiền kiếp có bố thí đồ ăn khất thực cho vị Ðộc Giác Phật tên là Tagarasikkhi. Do kết quả hành động ấy, vị ấy được sanh bảy lần lên thiện thú, Thiên giới. Do kết quả dư hưởng còn lại, vị ấy được làm nhà triệu phú bảy lần ở Sàvatthi
- Người cư sĩ chứng quả A La Hán nếu không xuất gia phải nhập niết bàn trong vòng bảy ngày.
- Bảy pháp làm cho chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm là: thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết; không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với những học giới được ban hành; tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỷ-kheo Thượng tọa và nghe theo lời dạy của những vị này; không bắt cóc, cưỡng ép các phụ nữ phải sống với mình; không bị chi phối bởi tham ái, tham ái này tác thành một đời sống khác; và tự thân an trú trong chánh niệm.
- Bảy pháp không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc là Tôn kính bậc Ðạo Sư, tôn kính Pháp, tôn kính Tăng, tôn kính học pháp, tôn kính định, tôn kính thiện ngôn, và tôn kính thiện bằng hữu.
- Khi vị Thánh xả thiền Diệt thọ tưởng định, năng lực của thiền này sẽ cho quả trong vòng bảy ngày.
- Vị Thánh bất lai sẽ không nhập thiền Diệt nếu thấy mình không thể sống tối thiểu được bảy ngày.
- Khi dứt sát na thứ hai thiền Phi phi tưởng phi phi tưởng xứ, danh uẩn của vị Thánh nhập thiền Diệt diệt mất trong vòng bảy ngày.
NHỮNG CON SỐ BẢY KHÁC:
- Bảy hạng người đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời là người có câu phần giải thoát, tuệ giải thoát, thân chứng, kiến chí, tín giải thoát, tùy pháp hành, tùy tín hành.
- Có bảy hạng người được ví dụ với nước, có mặt hiện hữu ở đời đó là: hạng người lặn một lần rồi chìm luôn, hạng người sau khi nổi lên, lại chìm xuống, hạng người sau khi nổi lên, được đứng lại, hạng người sau khi nổi lên, lại nhìn và thấy, hạng người sau khi nổi lên lại bơi tới, hạng người sau khi nổi lên, đạt được chỗ có chân đứng, hạng người sau khi nổi lên, sau khi bơi qua đến được bờ bên kia, lên đứng trên đất liền.
- Có bảy hạng vợ là: vợ như người sát nhân, vợ như người ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ, vợ như người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ.
- Người có đức tin có bảy đặc tính là: có tâm xả ly bố thí tài vật, mong mỏi được gặp thánh nhân, mong mỏi được nghe Phật pháp, thường có tâm hoan hỷ với việc thiện, ít khoe khoang về mình, có sự chân thật không giả dối, và tịnh tín nơi đáng tịnh tín.
- Bảy chi pháp của bạn hữu: cho những gì khó cho, làm những gì khó làm, nhẫn những gì khó nhẫn, nói lên những gì bí mật của mình, che giấu bí mật của người khác, không từ bỏ khi gặp bất hạnh, không có khinh rẻ khi tài sản khánh tận.
-Có bảy sự thù diệu vị Tỷ-kheo tha thiết hành trì học pháp và trong tương lai khát vọng hành trì học pháp; tha thiết quán Pháp và trong tương lai khát vọng quán Pháp; tha thiết nhiếp phục lòng dục, và trong tương lai khát vọng nhiếp phục lòng dục; tha thiết Thiền tịnh, và trong tương lai khát vọng Thiền tịnh; tha thiết tinh cần tinh tấn và trong tương lai khát vọng tinh cần tinh tấn; tha thiết niệm tuệ và trong tương lai khát vọng niệm tuệ; tha thiết thể nhập tri kiến và trong tương lai khát vọng thể nhập tri kiến.
- Bảy pháp thành tựu là Tỷ-kheo có lòng tin, có giữ giới, có nghe nhiều, sống Thiền tịnh, tinh cần tinh tấn, có chánh niệm, và có trí tuệ.
- Bảy pháp đưa một nam cư sĩ đến thối đọa là quên, không đến thăm Tỷ-kheo; phóng túng nghe diệu pháp; không tu tập tăng trưởng giới; ít tin tưởng các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân nhập; nghe pháp với tâm cật nạn, tìm tòi các khuyết điểm; tìm người xứng đáng cúng dường ngoài Tăng chúng; tại đấy phục vụ trước.
- Chúng sanh sinh ra từ bụng mẹ, giai đoạn đầu tiên là kalala, được mô tả là chất nhờn giống như giọt dầu mè dính trên lông con thú, rảy đi bảy lần chỉ còn một chút dính lại ở đầu lông.
- Bảy ngày kế tiếp, chất kalala phát triển thành abbuda, giống như nước máu dợt dợt.
- Bảy ngày kế tiếp, chất abudda phát triển thành pesi, giống như thịt rất mềm mại.
- Bảy sức mạnh là: Tín lực, tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
- Bảy thánh sản là: Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.
- Bảy tư lương của định là: Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm.
- Bảy thứ lửa là: Lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa những vị đáng cung kính, lửa gia chủ, lửa các vị đáng cúng dường, lửa củi.
- Bảy thứ tưởng là: Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngã trong khổ.
- Gia đình nào thành tựu bảy chi phần: Không vui vẻ đứng dậy, không vui vẻ chào đón, không vui vẻ mời ngồi; có chỗ ngồi đem giấu đi; từ nhiều họ cho ít, từ đồ thù thắng, họ cho đồ thô xấu; họ cho không có kính trọng, không có kính lễ, nếu vị Tỳ kheo chưa đến, thời không xứng đáng để đến; nếu đã đến, thời không xứng đáng để ngồi xuống.
- Có 7 loại cúng dường cho Tăng chúng:
1. Bố thí cho cả hai Tăng chúng (Tỳ khưu và Tỳ khưu ni) với Đức Phật là vị lãnh đạo.
2. Bố thí cho cả hai Tăng chúng, sau khi Đức Phật viên tịch (parinibbāna).
3. Bố thí cho chúng Tỳ khưu Tăng.
4. Bố thí cho chúng Tỳ khưu Ni.
5. Bố thí và nói rằng: "Mong Tăng chúng chỉ định cho tôi một số Tỳ khưu và Tỳ Khưu Ni như vầy".
6. Bố thí và nói rằng: "Mong Tăng chúng chỉ định cho tôi một số Tỳ khưu như vầy.
7. Bố thí và nói rằng: "Mong Tăng chúng chỉ định cho tôi một số Tỳ khưu Ni như vầy.
- Những con số bảy sau cùng là lời Phật dạy về quả dị thục của những công đức: Trong bảy năm Ta tu tập từ tâm, sau khi tu tập từ tâm bảy năm, trong bảy thành kiếp hoại kiếp, Ta không trở lui lại thế giới này. Khi thế giới ở trong thành kiếp, này các Tỷ-kheo, Ta đi đến thế giới Quang âm thiên. Khi thế giới ở trong kiếp đấy, này các Tỷ-kheo, Ta là Phạm thiên, là Ðại phạm thiên, vị Chiến thắng, vị Vô năng thắng, vị Biến tri, vị Tự tại. Ba mươi sáu lần, này các Tỷ-kheo, Ta là Thiên chủ Sakka. Nhiều lần bảy lần, Ta là vị Chuyển luân vương theo Chánh pháp, là vị Pháp vương, bậc Chiến thắng bốn phương, đạt được sự thanh bình cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Này các Tỷ-kheo, Ta có bảy loại châu báu này, như là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu và cư sĩ báu là thứ bảy. Ta có hơn một ngàn người con trai, này các Tỷ-kheo, là những bậc anh hùng, dõng mãnh, đánh tan địch quân. Và khi Ta chiến thắng quả đất này, xa cho đến bờ biển, Ta trị vì quả đất này không dùng trượng, không dùng đao, đúng với Chánh pháp.
Đây chỉ là một phần rất nhỏ về những con số bảy rải rác trong kinh Phật mà người viết ghi nhận được. Kính xin quý đọc giả bổ túc thêm.
Nguồn: buddhanet.net

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2011

ÂN THẦY (Thích Đồng Thành)

Ân Thầy 
Thích Đồng Thành 


Trong dòng chảy nhịp nhàng của cuộc đời, mỗi người đều có những niềm vui, nỗi buồn, những kỷ niệm thân thương hòa trong thao thức, ưu tư tìm về một nguồn hạnh phúc chân thật, miên viễn. Một trong những niềm hạnh phúc lớn lao mà một người có thể tìm được trong đời mình đó là niềm hạnh phúc được sống và nương trú gần các bậc chân sư hiền hòa, khả kính.
Sống trong kiếp phù sinh ngắn ngủi tạm bợ trong biển nghiệp thức mênh mang của thế giới phàm trần điên đảo, mỗi người đều có cùng một ước vọng, một khát khao về một cuộc sống đầy ý nghĩa nhất. Và trong cõi trần thế mịt mờ ấy, cuộc đời của các bậc chân sư hiển hiện sáng ngời như những vì sao chiếu rọi vào mọi ngóc ngách của những tâm hồn mê muội, mang lại cho họ một niềm tin mãnh liệt, một sức sống dạt dào tràn đầy từ ái bao dung.
Những bậc chân sư là những vị thầy tâm linh thánh thiện có lòng từ bi quảng đại, có nghị lực vô biên và tuệ giác sáng soi. Các Ngài luôn sống với tâm nguyện vị tha, luôn sẵn sàng che chở, giúp đỡ những tâm hồn chơ vơ lạc lõng trở về với ánh đạo chan hòa của đấng Từ tôn.
Là những người xuất gia trẻ tuổi được sống trong tình thương chan hòa của những vị tôn sư khả kính, mỗingười chúng ta cảm thấy thật diễm phúc biết bao khi được các Ngài tế độ ban ân, đưa chúng ta vào trong ánh đạo nhiệm mầu, dạy chúng ta về con đường tìm hạnh phúc. Hạnh phúc chân thật không thể được tìm thấy trong lầu son gác tía, trong sự thỏa mãn những tham vọng điên cuồng; mà hạnh phúc thật sự chỉ hiện hữu trong lòng những ai đang thực sự sống và thực sự chiêm ngưỡng sự sống. Các Ngài là người đã dạy cho chúng ta lẽ sống chân thực ấy.
Mang một sứ mệnh độ sanh cao cả thiêng liêng, các bậc chân sư - những vị thầy đáng kính luôn thao thức, suy tư, luôn hy sinh cả thân lực, tâm lực để làm sao xiển dương chánh pháp, tiếp dẫn hàng hậu lai làm cột trụ của chánh pháp trong mai hậu. Mỗivị thầy mãi là một hình ảnh chánh pháp sống động, là hiện thân những tinh túy của đạo pháp, và là sự ám chỉ rằng chân lý có thể đạt được ngay trong cuộc sống hiện tại, ở giữa trần thế long đong này. Qua nhân cách siêu việt của Thầy, chúng ta được tiếp xúc với oai đức kỳ diệu của chư Phật, các vị Bồ tát, các bậc Tổ sư; ta được tiếp xúc với chân giá trị của cuộc sống và tiếp nhận được nguổn năng lượng chánh pháp đang tuôn chảy dạt dào, bất tận qua bao thế hệ tổ tông.
Có những người đệ tử bướng bỉnh khó dạy, luôn làm cho thầy mình phải vất vả, âu lo. Nhưng hiểu rằng chẳng qua là do nghiệp chướng nặng nề của họ, thầy vẫn nhẫn nại, dạy dỗ hầu chuyển hóa tâm thức si mê kia. Những oai nghi, cử chỉ, những lời nói tha thiết của Thầy thật sự là những bài học vô giá cho mỗi người đệ tử chúng ta. Càng học được những nhân cách cao thượng của Thầy, mỗi chúng ta càng kính trọng Thầy. Chính sự kính trọng đó mà mỗi khi chỉ nhớ đến tên, đến hình bóng của Thầy thì chúng ta bôỵng cảm thấy một niềm hỷ lạc vô biên dịu mát đang tỏa khắp tâm mình. Đôi khi, có những người học được một ít kiến thức, chữ nghĩa, có được một mảnh bằng trong tay lại sinh tâm cống cao ngã mạn, rồi đâm ra xem thường thầy mình đang sống lặng lẽ giữa một vùng đồng quê hoang liêu cô tịch. Nhưng Thầy không hề giận những người như thế, trái lại Thầy cảm thương cho họ. Họ chưa thật sự sống với chính mình, chưa được tiếp xúc với nội tâm sâu sắc mà chỉ mải miết chạy theo tiếng gọi danh vọng của cuộc đời. Họ có biết đâu rằng đến một lúc nào đó, khi giáp mặt với cuộc đời thì họ mới cảm thấy thất vọng, hối tiếc cho những ngày đã qua. Một người học đạo chân chính không bao giờ mong cầu có nhiều kiến thức để phô trương; mà càng học hỏi, càng thâm nhập nghĩa lý của đạo, người ấy càng tỏ ra khiêm cung, từ tốn. Người ấy biết kính trọng các bậc tiền nhân, biết báo hiếu cha mẹ và biết tiếp nối sự nghiệp của Thầy Tỗ để lại.
Nếu có một lúc nào đó, những ai lắng lòng trầm tư về thầy mình thì sẽ thấy được cái đẹp giản dị toát ra từ cuộc sống chơn chất của thầy. Có một câu ngạn ngữ nói rằng : "Chính những bước chân lặng lẽ, nhẹ nhàng của chú chim bồ câu mới tạo nên sự kỳ vĩ trong cuộc đời", cũng thế, chính cuộc sống vô ngã, đơn giản bình thường của thầy đã tạo nên sự chuyển hóa tâm thức lớn lao trong xã hội, đã bồi đắp và xây dựng những giá trị tâm linh trong nền văn minh của nhân loại.
Mỗi vị Thầy đều có những cách giáo hóa khác nhau đối với hàng đệ tử của mình. Tùy theo cá tính của mỗi người đệ tử, thầy có lối hành xử khác nhau. Đôi khi nhìn vào cách cư xử của Thầy, nhiều người đệ tử lại sanh tâm hơn thua, giận dỗi. Họ có biết đâu Thầy đang dùng phương tiện thiện xảo để hướng dẫn cho mỗi căn cơ sai biệt. Thầy luôn dùng lòng nhẫn nại siêng năng, từ hòa khiêm tốn để sách tấn hàng đệ tử. Hạnh nguyện của Thầy luôn ẩn chứa trong ẩn hạnh vi mật. Đã bao đêm Thầy ngổi dưới ánh đèn cô quạnh để soạn bài cho ngày mai, để suy tư về sự thịnh suy của đạo pháp. hay tìm cách nào để vun bổi cho tương lai của đàn hậu học. Tình thương, đức độ của thầy luôn chất ngất, miên man. Mỗi người đệ tử luôn cảm nhận ân tình cao cả ấy, luôn được một niềm an lạc khi tận hưởng dòng sữa pháp ngọt ngào dịu mát của thầy.
Có những hôm mặt trời đang lặn dần sau những rặng núi phía Tây, ánh nắng vàng hiu hắt xen qua từng kẽ lá le lói trước sân chùa, khói cơm chiều nhà ai đang tỏa lên nhè nhẹ, chúng ta thấy bóng Thầy chầm chậm bước trước sân, thời gian đã làm hình hài Thầy thay đỗi nhiều quá. Thời gian vẫn trôi đi phẳng lặng, cuốn trôi theo cuộc thế huyễn mơ, thời gian có thể làm phai nhạt và chôn vùi mọi sự vật giả tạo hữu vi hay những bóng dáng khách trần từ lâu luôn lảng vảng trong tâm thức của bao người, nhưng thời gian không thể nào làm xóa nhòa những ân đức kỳ diệu mà Thầy đã ban cho đời chúng ta. Làm sao chúng ta có thể quên được công ơn bảo bọc, che chở, nuôi nấng của Thầy. Thầy là người đã khơi nguồn cho sơ tâm, đã bổi đắp niềm tin và ý chí, là người tác thành pháp thân huệ mạng và là bóng mát bổ đề che chở cho bao thế hệ chúng ta. Pháp âm của Thầy vẫn mãi mãi vang vọng muôn đời, muôn nơi, thấm sâu vào tâm ta, trở thành máu thịt của đời ta.
Cứ mỗi độ Vu Lan về, chúng ta nhớ đến cha mẹ thân yêu - những người đã sinh thành và nuôi nấng chúng ta, nhưng đây cũng là dịp để chúng ta tưởng nhớ, cảm niệm đến tình ân sư cao cả vô biên.
Thầy kính!
Chúng con thơ dại không hiểu hết được nỗi lòng từ dung của Thầy. Chúng con đã từng sống, từng học với Thầy, rồi nhân duyên cách biệt, mỗi người một phương. Dù ở xa Thầy nhưng hình ảnh khả ái, ân đức bao la của Thầy vẫn chất ngất trong con. Mỗi lần nhớ đến thầy, nhớ lời dạy của Thầy, chúng con luôn có cảm tưởng như đang sống bên Thầy, đang thừa hưởng pháp vị diệu vợi của Thầy. Oai đức của Thầy vẫn mãi tỏa sáng đời con.


Ngưỡng Quan


Một người lái đò, một người lữ khách



GNO - Một chiếc thuyền nan cứ mãi lững lờ trôi trên dòng sông sanh tử. Một diễm phúc đời con khi làm một lữ khách du phương trên chuyến đò của thầy. 
Một mái chèo, hai cánh tay thầy lèo lái chiếc thuyền nan vượt qua những thác ghềnh, sóng gió để đưa con thoát khỏi những dông bão của trường đời.
 Một chú tiểu ngộ nghĩnh đáng yêu bên một nhà sư hiền từ đức hạnh, người cho con nghị lực khi con buồn chán, thất vọng trong vai làm người lữ khách. Một tiếng nói thủ thỉ bên tai trong những đêm buồn. Thầy dạy con đừng bao giờ chùn bước: “Người có ý chí phi thường, sức chịu đựng phi thường thì mới làm được việc phi thường”.
Một tâm hồn nhỏ bé đang mở rộng cõi lòng để đón nhận ngọn lửa niềm tin cháy bỏng từ sự truyền trao của một người lái đò đang cố sức đưa người lữ khách tiếp đáp bờ bên kia. Một người đã ngã gục trên chặng đường, hai người, rồi ba người thấy chán nản chấp nhận bỏ cuộc, nhưng người vẫn vững mái chèo để cho con an lòng mà tiếp tục bước đi.
Thời gian trôi! một chú tiểu trở thành một nhà sư.
Con xa thầy từ thuở ấy! Nghiệp quả nhân duyên và vòng xoay của tuần hoàn tạo hóa. Con đã xa thầy! Một người lữ khách đã quên ông lái đò và chiếc thuyền nan trên dòng sông. Con chẳng muốn thế đâu! Hoàn cảnh, áp lực đã đưa con xa thầy mãi mãi.
Giờ đây con không biết ông lái đò năm xưa có còn nhớ đến người lữ khách kia không? Quá khứ đã cho con những bước chân vững chãi ở hiện tại nhưng vẫn phủ đầy cát bụi thời gian, dòng tâm thức hay trong suy nghĩ dù chỉ là một ý niệm nhỏ nhoi con luôn nhớ về thầy.
Con sợ hãi, lo lắng và suy tư đôi điều vớ vẩn chỉ vì một câu nói hai dòng tư tưởng trái nghịch, con và thầy đã xa nhau. Một cuộc đời, hai kiếp người, con và thầy chỉ biết nhìn nhau với ánh mắt lạ lùng và nuối tiếc.
Một bức thư năm ấy: “Dù con đang ở phương trời nào thì thầy vẫn mãi nhớ đến con, hãy trở về dù chỉ một lần con nhé!”. Một nỗi buồn, hai dòng nước mắt con đã rơi, sự tiếc nuối, nỗi cô đơn thương cho người lái đò vẫn mãi trông chờ người lữ khách ngoái đầu nhìn lại.
 Chiếc thuyền nan trên dòng sông sanh tử, người lái đò vẫn ngày đêm lèo lái, chấp nhận và hy sinh đời mình để tiếp bước đưa lữ khách sang sông. Một nỗi lòng, hai dòng tâm thức thuận chiều con đã hiểu và biết rằng phải trở về thăm lại nguồn xưa, như người lữ khách trở lại bến đò sau nhiều năm tha phương xứ lạ.
Giác Minh Luật

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

ÂN THẦY (Phong Vũ)


Nhớ ơn Thầy, một đời ơn giáo dưỡng
Lo cho con và tất cả vì con
Ơn của Thầy như sánh tợ trời non
Xin kính cẩn lòng son ghi tấc dạ.

Sống bên Thầy lòng con vui khó tả
Như đứa con gặp được Đấng Cha Lành
Thương tuổi già, vì hoằng pháp lợi sanh
Đành chấp nhận hy sinh vì nhân loại.

Ngày dậy sớm, đêm thức khuya mệt mỏi
Bỏ sức mình chẳng hỏi việc báo ân
Tấm gương sáng con ghi tạc bội phần
Nén tâm hương con chí thành khấn nguyện.

Đốt hương trầm và hương lòng hòa quyện
Gửi theo mây con ghi tạc tấc lòng
Biển sóng đầy cũng nhờ nước rạch sông
Con lớn bởi do công Thầy dạy dỗ.

Nguyện phước lành nhờ oai đức gia hộ
Cho Thầy con thọ tỷ tựa nam sơn
Sức khỏe tốt, hỷ lạc đến nhiều hơn
Tuệ tăng trưởng, tâm bồ đề kiên cố.

Thưa Thầy!
Cuộc đời Thầy một khoảng trời rộng lớn
Trải lòng từ vì nhân thế độ sanh
Con dám đâu ngước mắt chốn trời xanh
Khi con là hạt bụi giữa trần gian.

Thầy biết không? Trong những tháng ngày qua
Con bên Thầy, lòng con được thanh thản
Nếu vắng Thầy, trái tim con ngơ ngác
Ai cho con tiếng hát giữa cuộc đời.

Lời thô ý cạn viết đôi dòng
Xin gửi đến Thầy tận ý lòng
Như một món quà con kính cẩn
Dâng đến ân Thầy rộng mênh mông.

Con xin...
Sẽ cố gắng trau dồi thêm giới đức
Học và hành cho đến mức thành công
Cho đến ngày đạo quả kết đơm bông
Hương phúc định ngạt ngào hoa giác ngộ.

Kính dâng Thầy giáo thọ


Lịch sử Đức Phật



Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

MỘT CHUYẾN RA ĐI (Phong Vũ)

 

Một chuyến ra đi một nửa cuộc đời
Quá khứ xa rồi bỏ lại sau lưng
Gió bụi tung bay mây giăng mịt lối
Bóng ngả về chiều bỏ lại bên đàng.

Một chuyến ra đi một nửa kiếp người
Hình bóng quê xưa bỏ lại xa xăm
Gác buồn đèn khuya tâm tư le lói
Ấm mặn tình quê đốm lửa sưởi lòng.

Một chuyến ra đi một nửa nụ cười
Phiêu bạt lưng trời đánh đổi buồn vui
Loe loét bóng đêm đèn mờ giăng lối
Sỏi đá khô cằn miệng héo môi cười.

Một chuyến ra đi mất nửa cuộc đời
Bóng dáng quê nhà bỏ lại xa xôi
Trùng dương sóng vỗ biển nhớ xạc xào
Hương khói quê mình sông hóa ngậm ngùi.

Một chuyến ra đi mất nửa kiếp người
Đánh đổi đời mình suốt cả cuộc đời
Cát bụi rêu mờ bờ mây quên lối
Góc biển lưng trời bỗng hóa chơi vơi.

Một chuyến ra đi mất nửa nụ cười
Lặn lội dòng đời bao kẻ ngược xuôi
Ai khóc ai cười dọc đường sương gió
Bụi phủ thời gian mòn mỏi phương trời.

                             Vĩnh Long, 17/11/2011
                               (Kỷ niệm ngày ra đi)

MAI TÔI ĐI RỒI (Phong Vũ)


Mai tôi đi rồi một kiếp lang thang
Từ giã thân thương một quãng đường
Tiếp bước đăng trình gửi theo mây gió
Cát bụi song hành bỏ lại tình quê.

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

LỐI VỀ (Vũ Phong)


Sống trong một cuộc bể dâu
Đường đời lận đận mấy lần nhiêu khê
Cho tôi xin một lối về
Dẫu là trăm lối, bốn bề trái ngang
Dám mong hai chữ đá vàng
Chỉ mong thuyền có sang ngang nhớ về
Cho chiều nào ở bến mê
Có người vẫn nhớ lời thề về thăm
Du nhân cuộc sống lặng thầm
Khó thể quên được trăm năm có lần...


("Heo sữa" đã mua bản quyền trọn gói)

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Lễ Dâng Y Kaṭhina tại Chùa Pháp Bảo – Mỹ Tho (Tiền Giang).

Sáng nay, ngày 09/11/2011 (nhằm ngày 14/10/PL.2555) tại chùa Pháp Bảo (Tp.Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang) đã long trọng cử hành đại lễ Dâng Y Kathina trong niềm hoan hỷ vô biên của Tăng - Ni và tín đồ với sự chứng minh của Chư Tôn Đức Tăng, đặc biệt là sự quang lâm chứng minh của ngài Hòa Thượng Thiền sư Kim Triệu từ Mỹ, cũng như là sự có mặt của chư Tăng đến từ nhiều quốc gia như Thái Lan, Tích Lan, Nhật Bản. Buổi lễ còn có sự chứng minh của Thượng tọa Bửu Chánh, Thượng tọa Thiện Pháp và chư tôn đức đại diện các chùa thuộc hệ phái Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam.
















Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Lễ dâng y Kaṭhina tại Chùa Giác Quang - Quận 8

Vào ngày 06/11/2011 (nhằm ngày 11/10/PL.2555) tại Chùa Giác Quang (47 Lương Văn Can Quận 8 Tp.HCM) do Đại Đức Thiện Đạt làm trụ trì đã tổ chức lễ Dâng Y Kathina theo truyền thống hằng năm đến chư tăng nhập hạ tại bổn tự.
















Video Đại Lễ Dâng Y Kathina 2011 tại Chùa Tam Phước


Lễ Dâng Y Kaṭhina tại Chùa Tam Phước – Long Thành.

Sáng ngày 30/10/2011 (nhằm ngày mùng 04/10/PL.2555 AL.Tân Mão) tại Chùa Tam Phước (Long Thành) do Đại Đức Chánh Định trụ trì đã tổ chức lễ Dâng Y Kathina với sự chứng minh của chư tôn đức Tăng cũng như sự tham gia và chung hùn của quý Tu nữ - Phật tử các nơi góp thêm phần phước báu và long trong cho buổi.