Đất – nước – lửa – gió, gọi chung là tứ đại, dù ít dù nhiều thì chẳc hẳn người tu Phật nào mà chẳng biết bốn nguyên tố này. Vấn đề hôm nay chúng tôi không phải bàn về những nguyên tố này mà muốn nói đến đặc điểm của bốn thành phần này. Mỗi một loại đều có những đặc điểm riêng biệt và đáng để cho những người con Phật của chúng ta noi theo mà tu tập. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chia sẻ về những đặc điểm của quả đất hay nói cách khác là tập tu theo nết hạnh của đất.
Bộ Milinda Vấn Đạo – Milindapañha ghi lại, ngài Nāgasena nói với đức vua Milinda rằng quả đất có năm tính chất đáng được các hành giả thọ trì[1]. Năm tính chất cao thượng này đáng để chúng ta học hỏi và áp dụng vào cuộc sống tu tập của mình.
Thứ nhất, giống như đất là khi có kẻ đang vung vãi các vật được ưa thích hay không được ưa thích như là long não, gỗ tagara, gỗ trầm hương, nghệ, v.v... Cũng như đang vung vãi mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu, phân, v.v... thì cũng y như thế ấy. Dù người ta đổ và rải lên đất những thứ sạch đẹp như hoa, nước thơm, sữa thơm; hoặc người ta đổ lên đất những thứ dơ dáy, hôi hám như phân, nước tiểu và máu mủ; hay thậm chí là người ta khạc nhổ xuống đất thì đất cũng tiếp nhận tất cả những thứ ấy một cách thản nhiên, không vui vẻ, mừng rỡ mà cũng không chán ghét, tủi nhục, không hề có sự phản kháng hay chống đối, cũng chẳng mảy may có sự vướng lụy vào những thứ đó.
Sống trong cuộc đời ai cũng gặp phải nhiều vấn đề trong cuộc sống. Đường đời không phải lúc nào cũng êm xuôi, không phải lúc nào cũng trải thảm đỏ để cho chúng ta bước đi. Đôi khi, trong cuộc sống chúng ta gặp phải nhiều chướng ngại, lắm chông gai và thử thách. Có những lúc ta được nhiều người chào đón, ngợi khen và giúp đỡ nhưng cũng có lúc ta bị nhiều người chán ghét, chê bai và tìm đủ mọi cách để hãm hại. Chính vì lẽ đó, nếu mình không có đủ sức chịu đựng và thiếu nghị lực thì khó lòng tồn tại và phát triển, khó đứng vững trước những sóng gió của cuộc đời. Chúng ta phải học theo hạnh của đất, phải tập chịu đựng, phải làm chủ bản thân mình từ những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày, để rồi dần dần hình thành thói quen biết chịu đựng, biết làm chủ trước mọi khen chê, vinh nhục của cuộc sống. Tám ngọn gió đời[2]luôn rình rập thổi ùa vào mặt chúng ta, nếu chúng ta không kiên cường thì sẽ dễ bị quật ngã và thậm chí cuốn theo chiều gió.
Tâu đại vương, tương tợ y như thế vị hành giả thiết tha tu tập trong mọi trường hợp về các việc được ưa thích hay không được ưa thích như là về có lợi lộc và không có lợi lộc, về có danh tiếng và không có danh tiếng, về chê trách và khen ngợi, về an lạc và khổ đau thì cũng nên là y như thế ấy.
Được hay mất, lời khen tiếng chê… cũng chỉ là những thứ tạm bợ, vô thường, rồi sẽ ra đi, nhưng vì mình bị vô minh che ám nên chẳng nhận biết được thế nào là chân, thế nào là giả. Do đó cứ mãi là những thành viên thân thiết của cái siêu thị giả ảo đó để rồi hùa chân theo trò chơi luân hồi đến bất tận. Thuở xưa, có một con bạc đi đến đức Phật để hỏi đạo, đức Phật đã hỏi người đó:
- Bà-la-môn, ông sống bằng nghề gì?
- Bằng nghề cờ bạc, thưa Ngài.
- Thế ai thắng, ông hay người kia?
- Khi thì con thắng, khi thì người kia thắng.
- Bà-la-môn, chiến thắng kẻ khác là một việc tầm thường, chiến thắng như thế đâu có lợi lạc gì. Nhưng người nào chiến thắng dục lạc và tự chiến thắng bản thân mình, thì chiến thắng như thế lợi lạc hơn, không ai có thể đánh bại mình.[3]
Vượt qua mọi cám dỗ của dục lạc, vượt qua mọi tiếng khen chê, vượt qua mọi danh lợi của thế gian, bậc trí vững vàng sống giữa thế gian ví như ngọn đá kiên cố không hề bị di chuyển bởi bão táp phong ba.
Như đá tảng kiên cố,
Không gió nào lay động,
Cũng vậy, giữa khen chê,
Hãy tập như đất, noi theo đất mà tu tập, đừng để những thứ rác rưởi làm hôi thúi cái tâm của mình và cũng đừng để những hào nhoáng của ánh đèn màu làm lu mờ trí tuệ của người con Phật. Đó là đặc điểm thứ nhất mà chúng ta cần phải hành trì từ đặc điểm của quả đất.
Thứ hai, đất lánh xa việc trang điểm, trang sức, và được bao phủ bằng mùi hương của chính nó, tương tợ y như thế vị hành giả thiết tha tu tập nên lánh xa việc trang sức, nên bao phủ bằng mùi hương giới hạnh của chính mình.
Tục ngữ có câu: “người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”. Xin thưa rằng, với Phật Giáo, vẻ đẹp bên ngoài của một người chẳng là vấn đề gì đáng phải đề cập đến. Hình dáng đẹp, nhan sắc kiều diễm nhưng một giới hạnh không có, cư xử theo lối vô đạo đức thì có đẹp cỡ nào đi nữa cũng chỉ là một kẻ côn đồ không hơn không kém.
Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa.
Xe vua đẹp cũng già,
Thân này rồi sẽ già.
Pháp bậc thiện, không già.
Như vậy bậc chí thiện
Nói lên cho bậc thiện.[5]
Trang sức bằng những món nữ trang đắc tiền, xài toàn đồ hàng hiệu với giá cả tỷ, đi xe sang trọng là xu hướng của nhiều người có tiền cả khối. Tiền của họ chỉ sắm được những vật chất phù du chứ không thể nào có được những trang sức của bậc trí. Người có trí sẽ không thèm đeo những món hàng phù phiếm đó, các ngài chỉ trang sức bằng hương của giới hạnh.
Hương các loại hoa thơm
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Tỏa khắp mọi phương trời.
Hoa chiên-đàn, già-la,
Hoa sen, hoa vũ quý.
Giữa những hương hoa ấy,
Hương thơm của giới hạnh không cần phải tốn tiền, tốn bạc để tìm mua hoặc phải chầu chực ngoài cửa hàng để đặt hàng như các thương hiệu nổi tiếng. Người nào tu tập giữ giới một cách chính chắn thì chắc chắn vị ấy đã thoát lên người chiếc áo của giới hạnh. Hơn thế nữa, đức Phật có dạy về hai cách để làm cho mọi người trở nên xinh đẹp, tức là người nào muốn mình đẹp hơn thì nên có hai pháp này, đó là sự nhẫn nại (khanti) với mọi nghịch cảnh và hành vi đoan trang - hòa nhã (soracca) trong lúc xử sự[7].
Đeo nhiều trang sức có thể nguy hiểm đến tính mạng, mình phải cực khổ canh giữ và một điều nữa là mình sẽ mất nó; nhưng nếu là một người có giới hạnh, chúng ta sẽ không bị mất nó và mình sẽ đem theo nó sau khi thân hoại mạng chung, thậm chí sẽ hữu ích cho mình trong nhiều cuộc hành trình khác nữa. Đất vô tri nhưng biết giữ lại mùi hương của chính nó, con người tự nhận là loài thông minh nhất thì hãy cố gắng tỏ ra là người có trí tuệ, cố giữ giới để làm món hành trang, món trang sức cho chính mình.
Thứ ba, đất không có khoảng trống, không có chỗ nứt, không có lỗ hổng, dày, đặc, được trải rộng, tương tợ y như thế vị hành giả thiết tha tu tập nên có giới không có khoảng trống, không có mảnh bể, không có chỗ nứt, không có lỗ hổng, dày, đặc, được trải rộng.
người tu Phật phải yêu giới đức của mình như người phụ nữ trong thời kỳ trẻ đẹp thường hay chăm sóc sắc đẹp của họ, không cho có một bợn nhơ nào. Và mỗi ngày phải tự coi lại giới của mình có được vuông tròn hay không, ví người thanh niên mới lớn thường soi gương xem có mụn không. Phải tự suy xét lại giới hạnh của chính mình, nếu thấy chỗ nào còn tỳ vết, cần giải phẫu thì phải tìm phương chữa trị. người học Phật luôn luôn cố giữ giới đức của mình cho trong sạch, thà là chết chớ không để phạm tội nhỏ.
Người cư sĩ nên thọ trì năm giới cho được chính chắn, những ai phạm năm giới này là tự đào bỏ mất thiện căn của mình, bỏ mất đi cái gốc lành, rồi tự đào hố chôn sâu gốc rễ của mình vào vòng trầm luân, bám chặt, dính mắc vào kiếp sống sinh tử luân hồi, không bao giờ thoát ra khỏi thế gian đầy đau khổ này. Vì vậy, chúng ta nên cố đừng phạm vào những nghiệp bất thiện đó, phải cố gắng thọ trì học giới. Thuở xưa, có năm trăm cư sĩ tại gia than phiền rằng thật là khó giữ tròn năm giới, vì mỗi người có một hay hai giới không giữ được. Nghe câu chuyện, đức Phật dạy rằng không giới nào kém quan trọng hơn giới nào. Tất cả các giới đều khó giữ, nhưng phải giữ cho thật đầy đủ thì mới được giải thoát.
Ai ở đời sát sinh,
Nói láo không chân thật,
Ở đời lấy không cho,
Qua lại với vợ người.
Uống rượu men, rượu nấu,
Người sống đam mê vậy,
Chính ngay tại đời này,
Chuyện tiền thân ghi lại rằng, có người thợ hớt tóc đi chung tàu với một thánh đệ tử của đức Thế Tôn Kassapa. Chàng được vợ căn dặn rằng phải chăm sóc vị Thánh đệ tử chu đáo. Ra khơi, tàu bị chìm. Hai người với được tấm ván nên bơi được vô bờ. Tại đây, chàng bắt chim làm thức ăn để ăn và dâng cho vị cư sĩ; nhưng ông không ăn, chỉ niệm tưởng ân đức tam bảo. Động từ tâm, xà vương trú trên đảo biến mình thành thuyền và vị thần biển làm thuyền trưởng lái thuyền đưa vị cư sĩ trở về Jambudīpa. Người thợ hớt tóc muốn theo nhưng bị từ chối vì chàng bị nói rằng không có công đức. Thế là chàng xin trao hết công đức chàng lập được bấy lâu nay, giới đức chàng giữ bấy lâu nay cho vị cư sĩ. Bấy giờ chàng được mời lên tàu. Về đến Bārānasi, thần biển dùng thần lực mình biến ra nhiều tài sản cho cả hai người và dạy rằng: “Hãy thân cận với các bậc hiền trí. Nếu người thợ hớt tóc không thân cận với vị cư sĩ, ông ấy đã chết giữa biển rồi”.[9]
Giới chính là hành trang của mỗi chúng ta trong hành trình luân hồi. Không giữ giới được trong sạch xem như tự chúng ta đánh mất gia tài của mình và chắc hẳn sẽ khốn đốn trong tương lai. Xin hãy ghi nhớ câu chuyện này để làm gương, người có giới đức thanh cao, thương yêu giới đức của mình, dầu tội nhỏ nhen cũng không làm, ấy mới thật là người biết thương mình. người có giới hạnh thanh cao, nhờ giới đức ấy đưa đến chỗ an vui, cũng ví như chiếc thuyền đưa người qua biển khổ. nhờ có giới đức thanh cao mà con người tránh khỏi những điều tội lỗi cũng như nhờ có quả địa cầu nâng đỡ con người.
Thứ tư, đất không mệt nhọc trong khi nâng đỡ làng mạc, thị trấn, thành phố, xứ sở, cây cối, núi, sông, ao, hồ, thú rừng, chim, con người, đàn ông, đàn bà, tập thể, tương tợ y như thế vị hành giả thiết tha tu tập là không mệt nhọc trong những việc thuyết giảng giáo pháp, trong khi giáo giới, trong khi giáo hóa, trong khi giải thích, trong khi chỉ dạy, trong khi thức tỉnh, trong khi khuyến khích, trong khi tạo niềm phấn khởi.
Đất đã nâng đỡ cho cỏ cây, hoa lá, đất làm điểm tựa cho sự sống của con người và các loài động vật. Không có sự nâng đỡ của đất thì sự sống không thể nào tồn tại được trên thế gian này. Học theo hạnh nâng đỡ của đất, chúng ta phải cố gắng phấn đấu để hoàn thiện bản thân mình, trước hết là để tự lập và tiếp đến là làm chỗ dựa vật chất cũng như tinh thần cho người khác, gần gũi nhất là những người thân yêu xung quanh mình. Nâng đỡ ở đây cũng chính là giúp đỡ, trợ lực. Làm người sống trong xã hội, chúng ta không thể sống vô tâm, sống vị kỷ mà phải biết hướng tâm nghĩ đến người khác, tìm cách giúp đỡ người khác trong khả năng của mình, đem đến cho người khác niềm an vui, hạnh phúc. Nếu như không thể đem đến cho người khác niềm vui, không giúp đỡ được thì đừng làm cho người ta đau khổ và đừng hãm hại.
tâm của hành giả cũng phải như thế quả đất vậy, phải can đảm cương quyết chịu đựng với mọi khó khăn, trở ngại trên đời cũng như trong đạo, và phải ví ta như con đường, trên đó các sự khó khăn của trường hợp phải lăn qua lại cũng như xe cộ lớn nhỏ, nặng nhẹ trên đường mà đường không buồn phiền gì cả.
Ngoài vấn đề tu tập của cá nhân, ở đây còn muốn đề cập đến tâm lý của một vị sứ giả Như Lai, đem Chánh Pháp của Như Lai truyền giảng đến cho mọi người. Công việc hoằng pháp không chỉ là trách nhiệm riêng của chư Tăng mà còn là nhiệm vụ của tất cả người con Phật chúng ta. Đức Phật đã khích lệ các đệ tử của mình tự thân lên đường, dấn thân để tuyên truyền Giáo Pháp bất tử đến cho chúng sanh bằng Pháp Lệnh Hoằng Dương thật thiêng liêng và cao quý: “Này các tỳ khưu, hãy cất bước du hành vì lợi ích của nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì sự tiến hóa, sự lợi ích, sự an vui của chư thiên và nhân loại, chớ đi hai người chung một (đường). Này các tỳ khưu, hãy thuyết giảng giáo pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ”.[10]
Chấp nhận sứ mệnh hoằng giáo, người truyền giáo phải mang trên mình lý tưởng dấn thân vì Giáo Pháp. Bước chân vân du đây đó để đem Chánh Pháp đến với nhiều người không phải lúc nào cũng trải thảm đỏ rước mời mà lắm lúc cũng khó khăn. Nhưng với lý tưởng không mệt mỏi, niềm vui khi đem pháp bất tử đến cho mọi người sẽ là động lực giúp cho vị sứ giả thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Sớ giải ghi lại rằng, mỗi ngày ông Cấp-cô-độc đều đi đến yết kiến Thế Tôn hai lần nhưng ông không hề vấn đạo với đức Phật. Người ta nói rằng sở dĩ ông không dám thưa hỏi vì quá kính mến Phật. Ông nghĩ rằng đức Thế Tôn là một vị Phật cao quý và là một thái tử phong nhã. Sở dĩ Thế Tôn thuyết pháp cho ai vì nghĩ đó là thí chủ của ngài. Nếu bây giờ phải thuyết pháp cho ta, ngài sẽ nhọc mệt thêm. Vì lý do đó, ông không dám đến vấn đạo với đức Thế Tôn. Khi ông vừa ngồi xuống, đức Phật đã nghĩ: "Trưởng giả này bảo trợ cho ta khi ta không cần bảo trợ. Ta đã trải qua bốn a-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp để thành tựu đạo quả. Mái tóc đeo đầy trang sức ta đã cắt bỏ, đôi mắt ta đã vứt đi, máu thịt tim ta cũng nhổ bỏ tận gốc. Con ta, vợ ta thân thiết như chính mạng sống, ta cũng từ bỏ, chỉ vì muốn đem chánh pháp đến cho chúng sanh. Người này bảo trợ cho ta khi ta không cần bảo trợ"[11]. Đó là tấm gương của Thế Tôn, vị thầy của cả chư thiên và nhân loại, chúng ta cần noi theo để làm kim chỉ nam cho chí nguyện hoằng hóa độ sanh của vị sứ giả như lai. Tu theo Phật mới thấy được Phật và muốn thấy được Phật thì phải hành theo lời Phật dạy.
Tôn giả Puṇṇa thọ trì lời giáo giới đức Thế Tôn và xin trở lại quê nhà ở Sunāparanta để hoằng pháp. Thế Tôn mới hỏi rằng:
- Như Lai biết rõ rằng, dân chúng xứ Sunāparanta đa phần sống theo những giáo phái cuồng tín, bản chất họ còn rất hoang dã. Thô ác, hung bạo, dữ tợn là tâm tánh của họ. Vậy nếu họ nhục mạ, phỉ báng, mắng nhiếc ông thì ông phải làm sao? Có chịu đựng nổi không?
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu có trường hợp họ đối xử với đệ tử như thế, đệ tử vẫn tâm niệm họ là người tốt. Tại sao vậy? Thưa, vì họ mới chỉ nhục mạ, phỉ báng, mắng nhiếc đệ tử bằng lời nói, chớ họ chưa đánh đập đệ tử bằng tay hay bằng chân!
- Thế nếu họ đánh đá ông bằng tay, bằng chân thì ông làm sao?
- Thưa, đệ tử vẫn cảm ơn họ vì họ vẫn chưa dùng đá, gạch, sỏi để quăng ném đệ tử!
- Vậy giả dụ họ sử dụng đá, gạch, sỏi quăng ném ông thì sao hả?
- Thưa, đệ tử vẫn cảm ơn họ như thường vì họ chưa sử dụng đùi gậy.
- Vậy nếu, không những họ dùng đùi gậy đánh đập ông, mà còn cả dao bén và kiếm sắc đâm chém ông nữa thì ông phải làm sao?
- Bạch đức Thế Tôn! Cho dẫu mà như thế chăng nữa thì đệ tử vẫn sẵn có đủ áo giáp của tâm nhẫn và tâm từ để chịu đựng và thương yêu họ vì họ dù đâm dù chém nhưng vẫn chưa giết hại đệ tử!
- Vậy nếu họ giết ông thì sao?
- Thì đệ tử vẫn cảm ơn họ vì họ đã xả bỏ giùm cái thân giả hợp, bất tịnh này!
Đức Phật tán thán:
- Lành thay, lành thay, này Puṇṇa! Ðầy đủ với sự an tịnh tự điều này, ông có thể sống tại xứ Sunāparanta. Này Puṇṇa, nay ông hãy làm những gì ông nghĩ là hợp thời.[12]
Thế là Tôn giả Puṇṇa lên đường vì trách nhiệm hoằng dương Chánh Pháp. Sau mùa an cư đó, Tôn giả đã tiếp độ được năm trăm thiện tín tại quê nhà.
Tấm gương của Thế Tôn, gương lành của chư Thánh còn đó, ngần ngại gì mà chúng ta không dám hy sinh vì lý tưởng dấn thân với đạo pháp. Hãy sẵn sàng, hãy nhiệt tâm không mệt mỏi vì Chánh Pháp, vì sự nghiệp hoằng dương Giáo Pháp để chúng sanh được thấm nhuần lời Phật dạy.
Và thứ năm, đất được thoát ra khỏi sự nuông chiều hay ghét bỏ, tương tợ y như thế vị hành giả thiết tha tu tập nên sống với tâm ý tương tợ như trái đất, là được thoát ra khỏi sự nuông chiều hay ghét bỏ.
Trầm mình vào dòng chảy của các pháp thế gian nên chúng sanh lúc nào cũng trở nên đau khổ và cảm thấy thiếu thốn mọi thứ. Với người Phật tử, phải cố gắng để thoát ra khỏi dòng thế tục thường tình, vượt qua khỏi con sông ái dục thì mới có thể thoát được những vui buồn, hỷ nộ của thế gian. Sở dĩ chúng ta còn đau khổ là vì chúng ta còn chưa thể tự cởi trói cho chính bản thân mình.
Bà Visākhā thường nhờ cậy cô cháu gái tên Dattā, chăm sóc các tỳ-kheo khi bà vắng nhà. Ít lâu sau Dattā chết. Bà Visākhā hỏa táng thi hài cháu gái xong, quá buồn khổ bà đi đến chỗ Phật đảnh lễ và lui ngồi một bên. Phật hỏi:
- Này Visākhā! Có việc gì ngươi ngồi đây đầy vẻ buồn khổ, rơi nước mắt khóc than?
- Bạch Thế Tôn, đứa cháu gái thân yêu rất thật thà và trung tín của con vừa qua đời. Con sẽ không còn thấy lại nó.
- Này Visākhā, có bao nhiêu cư dân trong thành Xá-vệ này?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe ngài nói khoảng bảy mươi triệu.
- Giả sử tất cả những người này đều là người thân yêu của ngươi như Dattā, ngươi có thích không?
- Thưa vâng, con thích ạ.
- Có bao nhiêu người ở Xá-vệ chết trong một ngày?
- Bạch Thế Tôn, rất nhiều.
- Trong trường hợp đó, chắc chắn ngươi sẽ không đủ thời giờ than khóc, ngày đêm ngươi sẽ chẳng làm gì ngoài việc khóc lóc, kể lể.
- Thưa Thế Tôn, đúng vậy. Con đã hiểu.
- Tốt lắm, đừng ưu sầu. Ưu sầu hay sợ hãi chỉ khởi lên từ ái luyến.
Yêu thương, ngục buồn phiền,
Ái luyến, xiềng sợ hãi.
Người lòng như hư không
Hãy tập như đất, dù chúng sanh trên quả đất có như thế nào, ghét bỏ hay nuông chiều thì đất vẫn là đất, không hề oán hờn hay thích thú. Đừng để cái tâm chạy theo những tâm lý tình cảm thường tình. Hãy noi theo tấm gương của đức Bồ-tát Kuṇḍaka[14]trong chuyện tiền thân sau:
Một thời, Bồ-tát sanh trong một gia đình giàu có ở Kāsi. Ngài tên Kuṇḍaka. Sau khi cha mẹ mất, Kuṇḍaka bố thí hết tài sản thừa hưởng và lên núi Hy-mã-lạp để tu khổ hạnh. Lúc nọ, ông xuống núi, vô sống trong ngự uyển, và được quan đại tướng hậu đãi. Một hôm, vua Kalābu ở Bārānasi du ngoạn trong ngự uyển cùng phi tần cung nữ. Lúc vua no say và ngủ mê, các cung tần đi ngao du. Khi tỉnh giấc ông đi tìm và thấy các nàng đang nghe nhà tu khổ hạnh thuyết về đạo lý kham nhẫn. Ông ra lệnh thử tánh kham nhẫn của đạo sĩ bằng cách cho đánh ông hai ngàn roi gai rồi chặt tay chân, thẻo tai thẻo mũi của ngài. Hành hình đạo sĩ xong, nhà vua bỏ đi. Nghe quân báo, vị đại tướng liền đến băng bó thương tích cho đạo sĩ và xin đừng giận hờn ai khác ngoài nhà vua. Vị đạo sĩ không những chẳng oán hờn mà còn đọc kệ cầu chúc nhà vua được sống lâu trường thọ và không căm giận ai cả.
Trên đây là năm đặc tính của quả đất đáng cho tất cả chúng ta cùng nhau học hỏi và tu theo. Mong rằng đi bất cứ nơi đâu, gặp bất cứ hoàn cảnh nào, hãy cứ tập theo hạnh của đất. Cuộc sống có thế nào, đất bằng hay sóng dữ, xin hãy ghi nhớ rằng chúng ta không thể nào rời xa quả đất này. Vì thế, khi gặp nghịch duyên trở ngại hãy ráng tập nhìn xuống chân mình để nhớ đến đặc tính của quả đất và tự thức tỉnh bản thân mình.
Mùa không trăng đầu tiên năm Giáp Ngọ.
Tỳ-khưu Định Phúc.
[1] Tiểu Bộ Kinh, Milinda Vấn Đạo, Câu Hỏi Về Tính Chất Của Đất (TK. Indacanda dịch Việt).
[2] Tăng Chi Bộ Kinh, Chương Tám Pháp, Phẩm Từ, Kinh Tùy Chuyển Thế Gian (1).
[3] Chú Giải Kinh Pháp Cú, Kệ Số 104 (HT Pháp Minh dịch Việt).
[4] Pháp Cú Kinh, Kệ Số 81.
[5] Pháp Cú Kinh, Kệ Số 150 - 151.
[6] Pháp Cú Kinh, Kệ Số 54 - 55.
[7] Tiểu Bộ Kinh, Chương Hai Pháp, Phẩm Nhập Định.
[8] Chú Giải Kinh Pháp Cú, Kệ Số 246 – 247.
[10] Tạng Luật, Đại Phẩm, Chương Trọng Yếu, Tụng Phẩm Thứ Nhì (TK. Indacanda dịch Việt).
[11] Chú Giải Kinh Pháp Cú, Kệ Số 1.
[12] Tăng Chi Bộ Kinh 4, Tương Ưng Sáu Xứ, Phẩm Channa, Kinh Puṇṇa (S.iv.61).
[13] Chú Giải Kinh Pháp Cú, Kệ Số 213.