Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

GOOD BYE 2013

Bye-Bye-2013-Welcome-2014-Happy-New-Year-hd-Wallpaper-free-download3
Chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa thôi sẽ bước sang một năm mới. Good bye 2013.
Thật tình mà nói với cái năm 2013 này dường như chẳng có chút tình cảm gì với nó. Mình chẳng làm được gì, thậm chí mất còn nhiều hơn là được. Nhưng mà dù sao, Xuân, Hạ, Thu, Đông rồi lại Xuân, thời gian trôi qua theo định luật của nó, mình làm được gì hay đánh mất gì thì sao trách nó được. 
Vậy là thêm một năm trên đất khách nữa. Đến những ngày cuối cùng của năm mà còn phải vương mang cái nghiệp. Dường như nó luôn rình rập mình và có thể ập đến tấn công mình bất cứ lúc nào.
Ai cũng nói là sẽ sửa đổi, sẽ hoàn thiện mình trong năm sau. Sang năm mới làm cái mới. Với mình thì never, bây giờ mình không sửa được thì đợi đến khi nào mới sửa.
Hy vọng mọi chuyện không hay đã xảy ra, những chuyện bất mãn đã và đang hiện diện trong tôi, hãy cho nó tan biến theo tờ lịch cũ để chuẩn bị sang cuốn lịch mới.
Cầu mong cho tất cả huynh đệ, người thân, bè bạn và tất cả mọi người quen cũng như không quen được một năm mới thật nhiều niềm vui và tràn đầy phước thiện.
HAPPY NEW YEAR 2014

Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013

Vẻ đẹp kỳ diệu của hoa tuyết

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng nhìn thấy hình ảnh những hoa tuyết bằng giấy được dán lên tường trang trí trong dịp lễ hội mùa đông. Kích thước của mỗi hoa tuyết chỉ cỡ 1 mm, là những hình đối xứng lục giác rất phức tạp nhưng cũng rất hoàn hảo, không lẽ có những hoa tuyết như thế này thật sao?
Vì nước có công thức phân tử là H2O, nên xung quanh mỗi nguyên tử Oxy có hai nguyên tử Hydro. Chính tính đối xứng lục giác của các tinh thể nước ở thể rắn đã làm cho hoa tuyết cũng có tính đối xứng lục giác.
Vì sao hoa tuyết có những hoa văn cầu kỳ, phức tạp?
Khi các hạt băng li ti kết hợp với nhau, chúng tạo thành một hình trụ đối xứng lục giác. Khi những tinh thể hình trụ này trở nên ngày càng to lớn hơn, chúng “mọc” thêm 6 nhánh từ 6 đỉnh của lục giác. Các nhánh này cũng là những hình trụ lục giác (do cũng là các tinh thể băng), nên từ đó lại mọc ra các nhánh phụ nữa do cùng nguyên nhân như trên. Rồi từ các nhánh phụ lại mọc ra các nhánh con nữa, và cứ thể tiếp tục…
Điều cuối cùng cần giải thích nữa là vì sao 6 nhánh của một hoa tuyết gần như hoàn toàn giống nhau, trong khi không thể tìm được hai hoa tuyết hoàn toàn giống nhau.
Trong quá trình các nhánh được tạo thành thì tinh thể di chuyển không ngừng trong đám mây, đến những nơi có nhiệt độ và độ ẩm (hai yếu tố quan trọng nhất quyết định hình dạng của hoa tuyết) khác nhau. Tuy nhiên, vì tinh thể rất nhỏ bé, nên dù nó có đi đến đâu thì cả tinh thể vẫn chịu cùng một nhiệt độ và độ ẩm như nhau, và do đó mà các nhánh phát triển đồng đều nhau, tạo nên những hình dạng giống nhau ở cả 6 nhánh.
Và cũng vì các tinh thể di chuyển một cách ngẫu nhiên, nên không có hai tinh thể nào trải qua cùng một điều kiện nhiệt độ và độ ẩm như nhau. Kết quả là không có hai hoa tuyết nào hoàn toàn giống nhau.
Dưới đây là một số hình ảnh hoa tuyết do nhiếp ảnh gia người Nga Alexey-Kljatov thực hiện:





















Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

Giải mã quyền năng kỳ lạ của nhà vua Thái Lan


Năm 1992, vài giờ sau khi yết kiến nhà vua, Thủ tướng Thái Lan và đối thủ cùng tuyên bố rời khỏi chính trường. Quân đội buông vũ khí. Người biểu tình rút lui.

Sau nhiều ngày chìm trong khói lửa, hơi cay, đường phố thủ đô Bangkok ngày 5/12 bỗng yên ả lạ thường. Ở nhiều nơi, xe ô tô không hoạt động, không có dấu hiệu nào của những cuộc biểu tình chống chính phủ vốn đã gây náo loạn suốt hơn 1 tuần trước đó. Quốc kì Thái Lan tràn ngập.
Người dân, đa phần đều mặc áo vàng, đổ ra phố, ngồi dọc 2 bên đường. Họ chờ đợi hàng giờ chỉ để được nhìn thấy xe ô tô của nhà vua Bhumibol Adulyadej cùng đoàn hộ tống đi qua trong ngày sinh nhật lần thứ 86 của ông. Họ vẫy cờ, chắp tay, rưng rưng nước mắt và hô vang “Đức vua vạn tuế”.
 1
Ở quốc gia hơn 62 triệu dân này, những bức chân dung to hơn người thật của nhà vua được treo tại phần lớn các gia đình, các sảnh lớn, toà nhà văn phòng, nút giao thông như một minh chứng cho vị trí của ông trong đời sống xã hội.
Mỗi năm đi 30.000 dặm gặp nhân dân
Nhà vua Thái Lan được người dân nước này tôn kính như một vị Phật sống. Họ gọi ông bằng nhiều cái tên trìu mến nhưng không kém phần ngưỡng vọng: Vị chúa ngự phía trên chúng conVua của nhân dân... Sự tôn kính này không phải bắt nguồn từ những bí ẩn hay chịu sự tác động của một thế lực nào khác, mà từ chính thực tế đời sống.
Năm 18 tuổi, nhà vua Bhumibol lên ngôi sau cái chết bất ngờ của anh trai. Chưa từng được học về trách nhiệm của tầng lớp đế vương, song vị vua trẻ đã thề "cai trị quốc gia bằng sự công bằng, vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân". Và ông đã chứng minh rằng đó không chỉ là lời hứa suông.
Khi còn trẻ, sức khoẻ còn dồi dào, trung bình mỗi năm, nhà vua Bhumibol chỉ ở trong cung điện khoảng 7 tháng. Thời gian còn lại ông thường xuyên đi thị sát, tới những nơi xa xôi hẻo lánh, nghèo khó nhất Thái Lan, trò chuyện với người dân, xuống ruộng với họ, hoà mình vào với cuộc sống ở đó.
Quãng đường “rong ruổi” của ông mỗi năm trung bình khoảng 30.000 dặm - hầu hết đều trên chiếc xe jeep tự lái. Trong tâm trí của những người dân Thái, nhà vua là một người thân thiện, với cuốn sổ và chiếc bút trên tay, luôn lắng nghe và tràn đầy ý tưởng mới.
 2
Nhà vua Thái Lan nói chuyện với người dân nghèo trong một chuyến thị sát của mình.
Biểu tượng trường tồn qua thời gian
Ông đã biến cung điện Chitralada rộng lớn của mình thành tổ hợp trang trại, cánh đồng, nhà máy chế biến - nơi ông có thể tiến hành nhiều thí nghiệm và thực hiện hàng loạt các đề án về nông nghiệp, thuỷ lợi. Từ đây, hơn 3.000 đề án do chính nhà vua khởi xướng đã được triển khai trên toàn quốc, cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở nông thôn.
Văn phòng Ban phát triển dự án Hoàng gia cũng đã được xây dựng và thành công trong việc huy động ngân sách cũng như nguồn nhân lực từ phía các cơ quan chính phủ, nhằm thực hiện các dự án do Hoàng gia đề xuất - đa phần là dự án thuỷ lợi quy mô lớn. Thời điểm năm 1998 - 2003, khi chính sách phát triển của nhà nước thất bại, các tổ chức phi chính phủ đang có nhiều hoạt động, nhà vua cũng đã thiết lập tổ chức phi chính phủ Hoàng gia nhằm thúc đẩy nền kinh tế tự cung tự cấp và được số đông chấp thuận, làm theo.
Không những thế, vua Bhumibol cũng đã hỗ trợ chính phủ trong việc đưa ra hàng loạt giải pháp cho các vấn đề, từ giảm lũ lụt, hạn hán tới ùn tắc giao thông và phúc lợi xã hội.
Suốt 6 thập kỉ trị vì, nhà vua Bhumibol đã chứng kiến 17 cuộc đảo chính và 26 đời thủ tướng, kinh tế quốc gia phát triển, còn giá trị cộng đồng và gia đình bị suy giảm, tham nhũng trở thành một phần của đời sống. Dù thế, trong tâm niệm của người Thái Lan, nhà vua vẫn là hình ảnh mẫu mực của triết lý đạo Phật, chính trực, vô tư, tách mình khỏi đầy rẫy những vết nhơ và cám dỗ của cuộc sống.
Đối với người dân Thái Lan, nhà vua là một biểu tưởng của sự ổn định, một huyền thoại về nhân cách mà họ cảm thấy hết mức tin tưởng, một vị vua đáng kính trọng vì đã cống hiến cả cuộc đời mình để phục vụ đất nước.
“Quyền lực dự phòng” trong chính trường bất ổn
Mặc dù theo luật pháp, nhà vua phải đứng ngoài các vấn đề về chính trị, và quyền lực của ông chỉ mang tính biểu tượng, song bằng bằng sự công tâm và trung lập của mình, ông đã không ít lần thành công trong việc làm cố vấn, trung gian hoà giải những bất hoà chính trị liên tiếp xảy ra tại quốc gia này.
Một trong những hình ảnh của nhà vua Bhumibol để lại ấn tượng nhất với người dân Thái Lan và cả thế giới là sự xuất hiện trực tiếp trên truyền hình, trong cuộc nói chuyện với Thủ tướng Suchinda Kraprayoon và chính trị gia đối lập Chamlong Srimuang - hai nhân vật trung tâm gây ra cuộc biểu tình bạo lực khiến nhiều người dân thiệt mạng năm 1992.
Vua Bhumibol đã kêu gọi kiềm chế và hợp tác "vì đất nước của tất cả chúng ta chứ không phải vì đất nước của hai vị. Cuộc khủng hoảng không chỉ ảnh hưởng đến mọi người ở Bangkok, mà còn ảnh hưởng tới cả nước. Nếu như Bangkok bị thiệt hại, cả nước cũng sẽ bị thiệt hại. Không ai có thể hát khúc ca khải hoàn trên đống đổ nát của đất nước”. Vài giờ sau đó, Thủ tướng Kraparayoon và đối thủ đều đồng loạt tuyên bố rời khỏi chính trường, quân đội buông vũ khí, người biểu tình cũng rút lui.
 3 (1)
Nhà vua Bhumibol triệu kiến Cựu Thủ tướng Thái Lan Suchinda Kraprayoon (vest đen) và Tướng Chamlong Srimuang (áo xanh) để hoà giải hai bên.
Cựu Thủ tướng Thái Lan Prem Tinsulanonda, người trực tiếp theo dõi cuộc nói chuyện này nhớ lại: "Ngài không can thiệp cho tới khi chính phủ khi đó không thể nào kiểm soát được tình hình. Trong thời khắc vô cùng khủng hoảng, mọi người đã tìm tới ngài để kêu gọi giúp đỡ ngăn chặn đổ máu. Ngài đã mang lại hoà bình bằng cách đưa ra những lời khuyên".
Trong khi đó, cựu Thủ tướng Thái Lan Anad Panyarachun đã miêu tả quyền năng của nhà vua Bhumibol như một thứ "quyền lực dự phòng", luôn được sử dụng một cách tiết kiệm nhưng đầy khôn ngoan, đóng vai trò quyết định trong việc duy trì sự ổn định của quốc gia. Quyền lực này, theo ông Panyarachun, được tích luỹ trong suốt cuộc đời cống hiến cho đất nước của nhà vua, là thứ không thể truyền lại, cũng không thể kế thừa được.
Ông Sompop Louilarpprasert, thợ may của nhà vua tâm sự rằng: "Tôi muốn may xiêm y cho đức vua khi ngài 90 tuổi, 100 tuổi hoặc thậm chí là lâu hơn nữa". Ông Sompop là người đã may chiếc áo khoác màu hồng mà nhà vua mặc trong một dịp rời khỏi bệnh viện nơi ông điều trị từ năm 2009. Chỉ vài giờ sau đó, những chiếc áo màu hồng giống màu áo nhà vua đã được bán ở hàng nghìn địa điểm khác nhau trên khắp quốc gia. Có ngày, cả đường phố tràn ngập màu áo hồng của vua.
 4
Người Thái mặc áo hồng, thắp nến cầu chúc cho sức khỏe nhà vua trước cửa bệnh viện nơi ngài điều trị
Những người dân Thái Lan nói rằng họ coi màu hồng gắn liền với sự phục hồi sức khoẻ của vua Bhumibol và rằng nó sẽ mang tới cho ông sự may mắn. Bằng cách mặc màu hồng, những người dân đã cầu chúc cho ông - vị thủ lĩnh tinh thần - sẽ khoẻ mạnh và sống thật lâu với họ.

(My Lan - theo Trí Thức Trẻ) - soha.vn

Tổ chức Giáo Hội Phật giáo tại Thái Lan.


Monks_in_Wat_Phra_Singh_-_Chiang_Mai
Hiện nay tại Thái Lan có hai chi phái đều thuộc hệ phái Phật giáoTheravada, đó là chi phái Maha Nikaya và chi phái Dhammayut Nikaya. Đến nay chi phái Maha Nikaya là phái lớn có dấu tích là phái truyền thừa trực tiếp đến việc thành lập Giáo Hội Phật giáo Thái Lan xuất phát ban đầu do Tăng đoàn Phật giáo Lanka truyền sang vào thời kỳ Sukhothai; chi phái Dhammayut thì do Hoàng tử H.R.HMongkut thành lập năm 1833, về sau ngài lên ngôi kế vị Vua cha; chi phái này nhỏ hơn phái Mahanikaya, dành riêng cho những vị nghiêm trì giới luật. Cả hai chi phái đều chịu sự chỉ đạo chung của Hội đồng Tăng Già Tối cao của Giáo Hội và Đức Tăng Thống, do đó những hình thức canh tân biệt truyền trong nội bộ các chi phái hiện nay phần nào được giảm đi đáng kể.
Ở các thế kỷ trước, Giáo Hội Phật giáo Thái Lan chịu sự quản lý của Sắc luật Giáo Hội được ban hành lần đầu tiên vào năm 1902, Sắc luật thứ hai của Giáo Hội ban hành năm 1941, và Sắc luật của Giáo Hội hiện nay được ban hành vào năm 1962 và đã được tu chính vào năm 1992. Có hai chi phái được luật pháp công nhận đều thuộc hệ phái Phật Giáo Đại thừa từ Trung Quốc và Việt Nam truyền sang, hai chi phái nầy cùng hoạt động với hệ phái Phật Giáo Theravada (gồm hai chi phái Maha Nikaya và Dhammayut đã nói trên). Cả hai hệ phái đều đặt dưới sự lãnh đạo chung của Đức Tăng Thống (Sangharaja) do Quốc vương ban chiếu chỉ sắc phong thông qua đề xuất của hệ phái Theravada; Đức Tăng Thống theo qui định tại vị suốt đời; giúp việc cho Đức Tăng Thống có Hội đồng Tăng già Tối cao (Mahathera Samakhom)cử ra một Ban thường trực gồm 8 vị ủy viên và một Hội Đồng Trị Sự gồm 12 vị ủy viên do Đức Tăng Thống bổ nhiệm.
Đứng đầu Hội đồng Tăng Tối cao của Giáo Hội là Đức Tăng Thống, ngài có nhiệm vụ và quyền hạn ban hành sắc luật của Giáo Hội, phê chuẩn ban hành các điều lệ, nội quy và bổ nhiệm các thành viên quản lý điều hành Giáo Hội do hai các hệ phái đề cử.  Công tác quản lý điều hành Giáo Hội được giao cho một Văn phòng Phật giáo Quốc gia phụ trách, văn phòng này đảm nhiệm vai trò của một  Ban thư ký Hội đồng Tăng già Tối cao của Giáo Hội. Văn phòng Phật giáo Quốc gia có trách nhiệm liên lạc và điều phối nhằm đạt hiệu quả cao nhất mọi hoạt động Phật sự của Giáo Hội với Nhà nước. Văn phòng này còn có nhiệm vụ chăm sóc chư tăng và các chùa trên cả nước khi có nhu cầu cần đến sự tài trợ từ ngân sách nhà nước và trợ cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách chính phủ cho những tăng sĩ đảm đương công tác hành chánh phục vụ giáo hội.
a6IlF
Theo qui định, Giáo hội Thái Lan được tổ chức rất qui củ. Hằng ngàn tự viện và khoảng 300 ngàn vị  sư ( tỳ kheo và sadi) đặt dưới sự quản lý tập trung của Giáo Hội, luôn luôn được Nhà nước tôn trọng và hỗ trợ. Trong Giáo hội có sự thống nhất về Tăng sự, Giáo dục và Nghi lễ. Với một hệ thống lãnh đạo và quản lý tập trung, mọi hoạt động của Giáo hội luôn được sự giám sát chặt chẽ ; kỷ luật, kỷ cương được bảo đãm duy trì; bên cạnh đó còn có một kênh truyền thông liên lạc của chính quyền từ trung ương  đến cơ sở khắp các tỉnh thành trên cả nước có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi và giám sát mọi hoạt động của Phật giáo để kịp thời hổ trợ giúp đở. Từ thực tế này, chứng minh rằng, bao giờ tổ chức Giáo hội Phật giáo được sự hợp tác chặc chẽ của chính quyền nhà nước các cấp, thì lúc bấy giờ Phật giáo có cơ duyên thuận lợi được duy trì và phát triên bền vững và nhờ vậy Giáo Hội mới thực hiện xuất sắc vai trò của Phật giáo trong sự nghiệp đoàn kết nhân dân và công tác bảo vệ an ninh quốc gia. Tuy nhiên, việc quản lí Giáo hội quá phụ thuộc vào một cơ chế lãnh đạo tập trung như thế, xét ra, lắm lúc khó có thể thỏa mãn kịp thời yêu cầu khẩn thiết và thích ứng với hòan cảnh xã hội đang nhanh chóng đổi thay.
Hiện nay Phật giáo Thái Lan đang cần có một sắc luật đổi mới của Giáo Hội, một sắc luật nhằm cải cách Giáo hội đang được dự thảo và đem ra thảo luận. Cơ chế quản lý điều hành chung của Gíao hội sẽ được thay đổi theo cơ chế chấp hành được gọi là Cơ chế Đại chúng (Mahaganissra).
* Trích phát biểu của ngài Hòa thượng GS.TS Thepsophon Dhammakosajarn, Viện trưởng trường Đại học Mahachulalongkorn Thai Lan, đọc trong hội nghị Quốc tế các quốc gia theo hệ phái Theravada tại Srilanka ngày 15/01/2003
HT Thiện Tâm dịch
Nguyên tác: Buddhism in Contemporary Thailand
Theo:  Phật giáo Nguyên thủy số 10

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Cây Như Ý - nét văn hóa của Phật giáo Nam tông

1__20__755086325
Chúng tôi đọc được một bài báo viết ở Việt Nam  phản ảnh về cây Như Ý, việc này làm cho chúng tôi lưu ý vì đây là một trong những sinh hoạt cúng dường rất quen thuộc trong cuộc sống của người Phật  tử theo truyền thống Nam tông
Một Phật tử mà chúng tôi nghĩ có lẽ đó là một Phật tử theo truyền thống Bắc Tông đến chùa Nam Tông, nhìn thấy Phật tử Nam Tông  đến chùa và cúng dường một cái cây mà hoa lá của nó được kết từ những tờ tiền.  Vị này đã viết một bài   với lời phê phán và chỉ trích nặng nề về việc cúng dường cây “ tiền” đó, cho rằng cúng dường tiền là  không thanh tịnh,  theo tinh thần của Phật giáo .

Chúng tôi  xin nói rằng đây là một vấn đề mang tính văn hóa và khi đề cập đến văn hóa, thì phải nói đến tính đa dạng của nó. Có nhiều chuyện nhìn từ ngoài  chúng ta thấy là hay nhưng người khác thì lại thấy dở. Ví dụ như lmột số Phật tử Nam Tông  đi chùa Bắc Tông thấy Phật giáo Bắc Tông có quá nhiều nghi lễ rườm rà, nhưng Phật giáo Bắc Tông thì cho rằng chuyện tụng Kinh , thực hành nhiều  nghi lễ  là cái gì rất trang nghiêm và rất đẹp.  Đây thực chất chỉ là vấn đề văn hóa .

Như chúng ta  biết  người Cambodia hay là người Thái, đặc biệt là người Cambodia, họ có một phong tục  gọi là dâng bông hay là dâng hoa. Theo phong tục này,   thay vì  bỏ tiền ra mua bông hoa về cúng Phật như chúng ta thường làm thì họ lấy tiền đó kết thành những hoa hoặc lá, và họ treo chúng trên những cành cây khô để làm một cây giả, cây giả này thật sự  có giá trị vì hoa và lá của chúng là tiền. Sau đó họ  đem  cây bông hay hoa đó đến chùa  cúng dường.  Cây này được gọi là cây Như Ý, nó làm cho thí chủ hoan hỷ vì vừa có giá trị vừa đẹp.     Sau khi cúng xong, thì số tiền treo trên cây trở thành tịnh tài để dâng lên chùa. 

Thì  đây cũng là chuyện văn hóa. 

Cúng dường tịnh tài hay tiền vào chùa, dĩ nhiên  là một điều rất bình thường, ai cũng hiểu là ở quốc gia nào Phật tử cũng làm việc đó. Nhưng  không có nghĩa là  anh đến chùa cúng dường một món tiền cho vị  trụ trì để lo cho chùa, hay bỏ tiển vào hòm công đức là đúng còn một người  khi lấy tiền kết thành một cái cây, rồi đem cái cây tiền đó cúng dường là sai trái, là điều phản văn hóa hay là đi ngược lại với Đạo Phật.

Ví dụ như qúi vị ký một cái check 5, 7 ngàn hoặc tiền mặt cúng vào chùa thì trường  hợp này cũng tương tự như một vị thí chủ phát tâm làm một cây tiền đem cúng vào trong chùa.  Đây cũng là tấm lòng của họ,   nhưng  ký tấm check cúng dường thì đơn giản,  còn  bỏ thì giờ ra để làm một cây tiền, ở trên đó cũng cùng số tiền đó,  nhưng cái cây giúp cho buổi lễ  trông rôm rã và nó làm thí hoan hỉ vì họ đã bỏ công sức để làm cây tiền đó. Chúng tôi cũng biết rằng có nhiều Phật tử , khi  nhìn thấy những cây tiền đó,  họ cũng xếp tiền và họ gắn thêm vào  cây như là một cách hùn phước. 

Như vậy về vấn đề cây Như Ý, cái chuyện  hay,  dở, đẹp, xấu, hoan hỷ hay không hoan hỷ nó tùy vào quan niệm,  tùy vào cái nhìn của mỗi người. Chúng ta  biết rằng  với những người thí chủ cúng dường cây Như Ý, họ kết thành một cây tiền bằng tiền và công của chính họ, rồi đem đến chùa, khi họ cúng dường với  lòng thành thì  họ nhìn cây tiền đó họ  phát sinh hoan hỉ. Dâng xong  xong thì tiền đó lấy xuống xếp lại, cúng vào trong chùa thì đó cũng là chuyện phước thiện. 

Một việc làm với tác ý tốt đẹp như vậy nhưng nếu chúng ta muốn chỉ trích thì chúng ta cũng có cách để chỉ trích.  Chẳng hạn  nói rằng "tại sao tiền không để nguyên mà lại xếp lại rồi đến khi  đem cúng vào chùa lại mất công tháo xuống. mở ra" hay là ” vào trong chùa nhìn thấy cây mà treo tiền như vậy làm cho chùa mất thiền vị, trong chùa mà cúng dường tiền bạc lộ liễu như vậy là không hay". 

Chuyện đó cũng là văn hóa. 

Một thí dụ khác để minh chứng  cho điều này: Người Việt Nam và người Trung Hoa đôi khi nghĩ rằng ngôi chùa phải là một nơi rất là yên tĩnh thanh tịnh. 

Thế nhưng ở tại các quốc gia Phật giáo  thì thiền viện là nơi thanh tịnh, thiền viện là nơi để tu tập, còn những ngôi chùa là những ngôi nhà cộng đồng. Làng nào cũng có những ngôi chùa và ở đó người ta có những chuyện vui buồn, từ  sanh con,  thôi nôi đầy tháng, tốt nghiệp,  cưới hỏi, cho đến đám tang, tất cả đều đem đến chùa và cái sinh hoạt ở chùa trở thành ngôi nhà chung của tất cả người trong làng.

Điều đó không phải là dở, tuy nhiên tùy vào quan niệm mà  mỗi chúng ta có cách nhìn có cách phê bình khác nhau.   Vậy nếu chúng ta hiểu và tôn trọng văn hóa của người khác thay vì phê bình thì vẫn tốt hơn.


Tỳ khưu Giác Ðẳng

Biên tập: Pañña Dīpa Tuệ Đăng

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

TÌM LẠI CHIẾC Y


Đi với Phật thì mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy.
Câu nói ấy chắc hẳn đa số chúng ta đều biết và hiểu được ý nghĩa ẩn dụ trong đó. Nhưng đó là cái của ngày xửa ngày xưa, chứ bây giờ, trong thời hiện đại nhiễu nhương này, đâu đó chúng ta sẽ thấy được nhữngcon người đi với Phật mà lại thích mặc áo giấy.
Mùa lễ hội suốt một tháng đã trôi qua, trở lại với cuộc tu như ngày nào, chợt hồi tưởng lại những gì đã thấy và chứng kiến rồi tự thấy có chút gì đó đáng để suy nghĩ.
Ngày xưa, khi các vị tác bạch xin xuất gia, ai cũng nguyện bằng một niềm tin rất là tích cực:
Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇatthāya imaṃ kāsāvaṃ gahetvā pabbājetha maṃ bhante anukampaṃ upādāya.
Vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, bạch ngài, xin ngài vì lòng bi mẫn mà thu nhận y cà sa này và cho con xuất gia.[1]
Hoặc là:
Chúng sinh vô biên thề nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn .
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thề nguyện thành.
Lời nguyện đó nay còn đâu, hay là đã ra đi biền biệt đâu đó rồi, để thay vào đó là những chiếc y giải thoát ngày nào nhường chỗ cho những chiếc áo giấy lung linh nhiều màu sắc, mỏng manh, tha thướt theo từng thời đại, theo từng dòng đời của những đợt ra hàng mới…
Người xuất gia tu hành phải ăn mặc giản dị, không cầu kỳ, màu mè, đúng theo tinh thần của giới luật phật ban hành. Đức Phật và Tăng chúng đệ tử của Ngài ngày xưa phải đi lượm vải quấn tử thi để về may y mà mặc, gọi là phấn tảo y. Chiếc y như là tượng trưng cho màu cờ của bậc A-la-hán, màu cờ của bậc giải thoát, lại nữa, chiếc y như là lời nhắc nhở cho hàng xuất giả phải biết tri túc, thiểu dục, không tham đắm trong y áo. Bậc xuất gia phải thường quán tưởng về việc thọ dụng y áo để mình biết mục đích của việc mặc y áo là gì?
Này các tỷ-kheo, ở đây, tỷ-kheo như lý giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, chỉ với mục đích che đậy sự trần truồng.[2]
Mỗi buổi sáng, hình ảnh các vị sư ôm bát đi khất thực ngoài phố, đầu trần, chân đất, bất kể mưa gió là một hình ảnh vô cùng đẹp và thiêng liêng của đời sống tu sĩ xuất gia. Chiếc y của các ngài khoác lên trên mình tượng trưng cho những thuở ruộng, vì các ngài là những vị đại diện cho Tăng già, là ruộng phước điền vô thượng của toàn chư thiên và nhân loại.
Chuyện kể lại rằng: một thời, khi Thế Tôn du hành trong xứ Dakkhiṇāgiri, Ngài đã nhìn thấy mảnh ruộng ở Magadha được kết nối bằng những khoảnh vuông vức, được kết nối bằng những mảnh vuông giao nhau, nên ngài bảo Đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, ngươi có khả năng thực hiện các y có kiểu mẫu như thế cho các vị Tỳ khưu không?
- Bạch Thế Tôn, con có khả năng.
Khi ấy, Đại đức Ānanda đã làm theo lời của Thế Tôn rồi đem những y đã hoàn thành đến trình bạch với Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết pháp thoại rồi bảo các Tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, Ānanda thật thông thái. Này các Tỳ khưu, Ānanda có đại trí tuệ bởi vì vị ấy hiểu ý nghĩa một cách đầy đủ của điều đã được ta nói ra một cách vắn tắt. Vị ấy làm được dải nối theo chiều dọc (của y), vị ấy làm được dải nối theo chiều ngang (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc dải điều (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc dải điều (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc dải điều giữa (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc các dải điều bên (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc dải điều giữa (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc các dải điều kế (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc hai dải điều biên (của y), (như thế y) sẽ được cắt ra, sần sùi khi được ráp lại, phù hợp với sa-môn, không còn được mong mỏi bởi những kẻ đối nghịch.[3]
Y áo xa hoa, bình bát bị chôn vùi theo đời sống thị trường khiến biết bao người mộ đạo mất đi niềm tin và làm cho những người chưa có niềm tin không thể phát khởi niềm tin được.
Chiếc y chỉ là trang phục của người xuất gia, chứ chiếc y không thể tạo nên người xuất gia mà chính bản thân những người khoác lên mình chiếc y đó mới là điều kiện quan trọng quyết định mình có xứng đáng khoác lên mình chiếc y hay không. Bao nhiêu trang sức, bao nhiêu bằng cấp học cao, bao nhiêu vật dụng hiện đại cũng không thể tạo nên một người xuất gia. Và cái trang sức mà người xuất gia cần có trong mình chính là sự nhẫn nại (khanti) và sự nghiêm tịnh (soracca). Đây là hai pháp làm cho xinh đẹp, khiến cho người thực hành trở nên xinh đẹp chứ không phải là những trang sức tầm thường. Chúng ta đừng nghĩ rằng sự xa hoa, lộng lẫy trong trang phục và vật chất là chỗ bù đắp và che dấu sự yếu kém phẩm chất của mình, mà ngược lại chỉ làm cho người khác thêm khó chịu.
Sự thanh thoát khiến người đời tín mộ của một tu sĩ là thân khẩu ý luôn đồng nhất, nghĩa là thân làm, miệng nói và ý nghĩ không trái nghịch nhau, chỉ có thân làm việc đúng đắn, miệng nói lời chân chính thì mới làm cho phẩm hạnh của người tu toả sáng, nếu không thì miệng nói thao thao nhưng nội tâm rối loạn, làm cho phẩm hạnh khiếm khuyết không toả sáng lên được. Cũng ví như một con két, nó có bộ lông rực rỡ, đẹp đẽ, có thể bắt chước giọng nói của người khác nhưng tuyệt nhiên nó vẫn chỉ là một con két không hơn không kém.
Xã hội đương đại bây giờ, chúng sanh thích tầm cầu sự hào nhoáng bên ngoài, họ thích cái mác, cái thương hiệu sao cho sành điệu chứ không nghĩ đến cái bên trong đang dần thúi rục mà chẳng ai thèm để ý đến. Chính vì điều đó, đời sống thị trường xâm nhập mọi nơi, kể cả nơi thanh tịnh như chùa chiền, cá hơi của kinh tế làm mất dần đi đời sống thiêng liêng của người xuất gia.
Tôi có những người bạn, họ đã khoác chiếc y ca-sa ngót hơn mươi năm vậy mà một ngày họ lại trả lại chiếc y, trở lại cuộc sống thế tục. Cũng buồn đấy chứ. Nhưng thà vậy mà tốt, tôi trân trọng họ, vì họ là những người dám chấp nhận ra đi để gìn giữ đạo tâm chứ không phải ở lại để rồi trở thành một con sâu đục khoét đây đó, chẳng xứng đáng với chiếc y đang mặc.
Một vài lời sau chuyến đi của mùa lễ hội, đôi chút bang khuâng và suy nghĩ. Hy vọng sẽ là một bài học và tự nhắc nhở bản thân chứ không dám trách ai hay là giáo giới ai. Xin đừng hiểu lầm và xuyên tạc không đúng sự thật.
Kết thúc lễ hội… 2013

[1] Luật Nghi Sa-di (TT. Giác Giới biên soạn).
[2] Trung Bộ Kinh 1, Kinh Tất Cả Lậu Hoặc (HT Thích Minh Châu dịch việt).
[3] Tạng luật, đại phẩm, chương y phục (TK. Indacanda dịch việt).

Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

NĂM BỔN PHẬN CỦA CON CÁI ĐỐI VỚI CHA MẸ


Trong bài Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt, Đức Thế Tôn đã dạy cho thanh niên Siṅgāla về năm trách nhiệm của con cái đối với đấng sanh thành như sau:
(1) Tôi sẽ nuôi dưỡng cha mẹ.
(2) Tôi sẽ làm tròn bổn phận đối với cha mẹ.
(3) Tôi sẽ giữ gìn danh dự gia đình và truyền thống.
(4) Tôi sẽ bảo vệ tài sản thừa tự.
(5) Tôi sẽ lo chu toàn tang lễ của cha mẹ.
Đó là năm nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả mà những người con nên thực hiện và hành theo để tự mình có thể tiến hóa từ nội tâm đến cuộc sống bên ngoài được thành công tốt đẹp.
1. Tôi sẽ nuôi dưỡng cha mẹ.
Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với hai đấng sanh thành ra mình
theo Đức Phật là nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự báo đền cha mẹ bằng cách chăm sóc cha mẹ về đời sống vật chất, cũng như chính cha mẹ đã lo cho chúng ta trưởng thành, trong suốt mười tám năm vị thành niên.
Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết là lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng và phụng dưỡng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.
2. Làm tròn bổn phận đối với cha mẹ.
Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khái niệm bổn phận ở đây cần phải được hiểu là sự thực thi những điều trách nhiệm của người con đối với cha mẹ tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép. Nghĩa là công việc hiếu thảo không bao giờ là một sự bắt buộc mà trái là một ý thức cao độ, ý thức làm người có đạo lý.
Có nhiều trường hợp người con vì thương cha kính mẹ mà làm nhiều điều tội ác để chu cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật chống lại sự hiếu thảo phi pháp như vậy. Nói cách khác làm trọn bổn phận tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép là một trong những cách thể hiện chữ hiếu hợp lý nhất. Ví dụ khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau. Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ chồng, con chu đáo, thăm viếng cha mẹ khi có thời gian, phụng dưỡng đời sống vật chất cho cha mẹ tùy theo khả năng và điều kiện…
Ở một góc độ khác, việc làm tròn bổn phận còn có ý nghĩa đạo đức rất lớn, nhất là trong
trường hợp cha mẹ sống thiếu Chánh kiến đối với Phật – Pháp – Tăng hoặc tạo tác nhiều điều tội lỗi. Người con có hiếu là người con phải biết tìm mọi cách khuyên gián cha mẹ, giúp cho cha mẹ trở về với con đường hiền lương và thánh thiện.
Nói cách khác, báo hiếu trong đạo Phật không chỉ đơn thuần về đời sống vật chất mà
quan trọng hơn là đời sống tinh thần và đạo đức. Đây chính là nét đặc sắc và độc đáo của chữ hiếu trong đạo Phật.
3. Giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình.
Người con hiếu thảo theo Đức Phật là người, ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp còn là người biết tôn trọng các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình, giống nòi và dân tộc.
Lời dạy này phản ánh rằng các truyền thống có thể có hai mặt, một mặt tốt và tiến bộ, và một mặt xấu và phản tiến hóa. Đức Phật chỉ khuyên chúng ta theo mặt tốt và tiến hóa của truyền thống trong khi mạnh dạn loại bỏ các mặt tiêu cực và bất lợi của nó. Lời dạy này càng có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc các truyền thống và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần tìm hiểu và làm sống dậy chúng.
4. Bảo vệ tài sản thừa tự.
Nếu “duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia” là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu theo tinh thần lời Phật dạy thì “bảo vệ tài sản thừa tự” là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính Tam bảo, thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật – Pháp – Tăng, trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều sâu hơn.Rất tiếc hiện nay trong nhiều xã hội, lời dạy này không được áp dụng nên đã có nhiều cảnh con cái trở thành những kẻ phá hoại tài sản của cha mẹ và tổ tiên để lại. Nhiều người con chỉ biết chi tiêu gia tài của cha mẹ theo khuynh hướng tán gia bại sản hơn là duy trì và phát huy chúng.
5. Lo chu toàn tang lễ cho cha mẹ đúng pháp.
Điều hiếu thảo cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là khi cha mẹ qua đời, con cái phải tổ chức tang lễ cho cha mẹ một cách chu toàn và đúng pháp. Tổ chức tang lễ chu toàn tùy thuộc rất nhiều vào phong tục tập quán của từng quốc gia, xã hội và gia đình. Nói chung là phải làm đúng theo các quan niệm đạo hiếu của từng dân tộc và truyền thống.
Tổ chức đúng pháp là điều quan trọng hơn. Nếu tổ chức “chu toàn” nhằm nhấn mạnh đến hình thức và trình tự của tang lễ như tẩm liệm, chôn cất… thì tổ chức đúng pháp nhấn mạnh đến nội dung và tinh thần của tang lễ. Đúng pháp theo tinh thần lời Phật dạy là con cái không nên khóc lóc, than vãn mà trái lại nên Chánh niệm, tỉnh giác trước cơn vô thường sinh ly tử biệt để hỗ trợ cho cha mẹ không còn quyến luyến tình cảm thế gian, vãng sanh một cách nhẹ nhàng và dễ dàng. Sự khóc lóc và rên rĩ của con cái có thể làm động tâm các bậc cha mẹ vừa quá cố và do đó làm trở ngại rất nhiều cho tiến trình tái sanh của cha mẹ. Do đó, người Phật tử không nên quá bi lụy theo thường tình của thế gian, trái lại thỉnh mời chư Tăng đến để làm phước hồi hướng cho người quá vãng.
Có nhiều người con khi cha mẹ còn sống thì đối xử một cách bỏn xẻn, không phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng khi cha mẹ vừa nằm xuống thì lại cố tình tổ chức tang lễ cho rình rang, để chứng tỏ ta đây là người con có hiếu. Đạo Phật không dạy chúng ta như vậy. Trái lại, đạo hiếu của Đức Phật rất chu đáo và nhấn mạnh đến ý thức trách nhiệm chân thành của người con hơn là các hình thức nghi lễ bề ngoài, đôi lúc có tính cách lạc dẫn.
Khi cha mẹ còn sống thì cúc cung, chăm sóc, sớm thăm tối viếng, cung phụng miếng ăn và thuốc thang cho cha mẹ. Vâng lời cha mẹ khi cha mẹ có lời dạy bảo hay. Làm tròn bổn phận làm con trong mọi hoàn cảnh. Khuyến khích cha mẹ trở về con đường hiền lương và đạo đức nếu cha mẹ vượt quá con đường hiền thiện. Rồi đến lúc cha mẹ nhắm mắt lìa đời thì tổ chức tang lễ giản đơn nhưng không kém phần trang nghiêm và có ý nghĩa đạo đức.
Nói chung, báo hiếu khi cha mẹ qua đời là việc lo chu toàn tang lễ một cách chân thành, trang trọng; không đặt nặng các hình thức lễ nghi như hiến tế súc vật, cúng tam sên (sanh), trổ nhạc tây nhạc tàu, thuê người khóc mướn, tổ chức ca hát xướng kỵ v.v… Các việc làm như vậy chỉ tạo thêm nhiều nghiệp ác và tội lỗi mà thôi. Tang lễ theo đạo Phật nên đơn giản bao gồm các khóa lễ tụng kinh tưởng niệm, phóng sanh thả vật, làm phước cúng dường, để hồi hướng công đức cho cha mẹ vừa quá cố, như một hành trang đạo đức cho cha mẹ đi tái sanh vào các cảnh giới an lạc.Trong những bài pháp của Ngài, Đức Phật liệt kê một số nhiệm vụ và bổn phận chủ yếu như là những lời hướng dẫn cơ bản đó là, bằng đức tu tập và hành động, để dẫn dắt con cái tránh xa những điều xấu xa và bằng những lời động viên nhẹ nhàng, để dìu dắt chúng làm tất cả những điều cho gia đình, xã hội và tổ quốc.
(trích PHÁP TRIỀU – TK. ĐỊNH PHÚC)