Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

TRƯỞNG LÃO BAKKULA - Đệ nhất hạnh vô bệnh (Định Phúc)

TRƯỞNG LÃO BAKKULA
Đệ nhất hạnh vô bệnh
Xá lợi của Ngài Trưởng lão Bakkula

I. Gia thế:
Trước khi Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian, tại thành Kosambi, gia đình vị Tế sư nọ ở Kosambi có một đứa con trai. Một hôm, người vú nuôi bồng đứa bé ra bờ sông Yamunā để tắm, vì theo quan niệm Bà-la-môn thì khi tắm nước của dòng sông này sẽ được sức khỏe. Bất ngờ, có một con cá kình rất lớn vồ lên và nuốt mất đứa bé từ trong tay người vú nuôi.
Con cá đó không bao lâu sau thì bị một ngư phủ câu được và đem vào thành Bāranasī bán. Lúc bấy giờ, phu nhân của vị Tế sư đi chợ ngang qua liền thấy con cá quá to nên muốn mua về. Khi về đến nhà, lúc mổ bụng để làm thịt thì thấy có một đứa bé nằm trong bụng con cá. Biết đứa bé còn sống nên ông bà nhận đứa bé làm con nuôi của mình. Đây cũng là phần phước duyên của một vị đã tạo đủ Ba-la-mật để chứng đắc A-la-hán trong kiếp này.
Nói về gia đình vợ chồng ông trưởng giả ở thành Kosambi, hai ông bà rất đau khổ khi bị mất đứa con yêu quý và vẫn nuôi hy vọng đứa bé vẫn còn sống nên cho người đi dò la tung tích khắp mọi nơi. Chẳng bao lâu thì được tin báo con trai mình vẫn còn sống và hiện đang ở Bāranasī, hai ông bà liền đi đến đó xin nhận lại đứa con trai nhưng gia đình cha mẹ nuôi không đồng ý. Sự việc không được thỏa thuận nên trình lên đức vua. Đức vua nghe xong câu chuyện liền phán rằng: “Cả hai gia đình đều có công và yêu mến đứa bé, vậy đứa bé là con của cả hai gia đình, sau này sẽ thừa tự tài sản của hai gia đình”. Do sự kiện đó, đứa bé được đặt tên là Bakkula, nghĩa là người của hai gia đình.
Đứa bé lớn lên trong sự chăm sóc và giáo dục của hai gia đình. Về sau được thừa tự 800 triệu đồng tiền vàng Kahāpaṇa. Hiển nhiên trở thành một vị trưởng giả giàu có với sự nghiệp gia tài đồ sộ lúc đương thời.
II. Xuất gia:
Hưởng thụ mọi thú vui thế gian suốt 80 năm, trưởng giả Bakkula không hề biết đến bệnh là gì. Nhưng do duyên lành đã tròn đủ, một hôm, sau khi được nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp đã khởi niềm tin và muốn được đi xuất gia trong giáo pháp.
Vì xuất gia lúc tuổi cao nên Tỳ-khưu Bakkula nỗ lực phát triển sức mạnh của thiền quán Vipassanā nên chỉ sau 7 ngày từ khi xuất gia, vào ngày thứ 8, Tỳ-khưu Bakkula đã chứng đạt được tất cả các pháp thượng nhân của một bậc thinh văn A-la-hán (Tam minh, Lục thông, Tứ tuệ phân tích).
Ngài là một trong bốn vị đại đệ tử có đại thần thông thuộc hàng thâm hậu nhất trong các vị đệ tử (bốn vị đó là Tôn giả Sāriputta, Tôn giả Moggallāna, Tôn giả Bakkula và Trưởng lão Ni Yasodharā).
Trong cuộc đời xuất gia của ngài, Tôn giả Bakkula có nhiều đặc hạnh rất đặc biệt, một vài ví dụ điển hình như là:
- Không bao giờ khởi lên dục tưởng.
- Không bao giờ khởi lên sân tưởng.
- Không bao giờ khởi lên dục tầm.
- Không bao giờ khởi lên sân tầm, não hại tầm.
- Không bao giờ nhận y của cư sĩ.
- Không bao giờ may y Kaṭhina.
- Không bao giờ nhận lời mời đi thọ thực.
- Không bao giờ thuyết pháp cho nữ nhân.
- Không bao giờ thuyết pháp cho Tỳ-khưu ni, sa di ni, học nữ.
- Không bao giờ làm thầy tế độ cho vị nào xuất gia.
- Không bao giờ làm thấy yết ma hoặc thầy y chỉ.
- Không bao giờ nhờ vị sa di nào phục dịch mình.
- Không bao giờ có tật bệnh.
- Không bao giờ nằm dựa vào tấm gỗ.
- Không bao giờ nằm dài mà ngủ.
Ngài còn được Đức Thế Tôn tán dương là một vị Thinh văn đệ nhất về hạnh vô bệnh trong hàng đệ tử.
Và cũng có lẽ, Ngài là một vị thánh đệ tử có tuổi đời và tuổi hạ cao nhất trong Phật giáo. Ngài xuất gia năm 80 tuổi, hạ lạp được 80 hạ, Ngài viên tịch Níp-bàn năm 160 tuổi.
III. Tiền thân:
Vào thời kỳ Đức Phật Anomadassī, Ngài sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn nhưng sau đó đi vào rừng xuất gia làm đạo sĩ, rồi chứng đạt được bát thiền ngũ thông. Khi biết được Đức Phật đang thuyết pháp độ đời thì đạo sĩ liền đi đến nghe pháp. Sau khi nghe pháp đã phát khởi niềm tin và đã xin quy y Tam bảo. Một lần nọ, đạo sĩ biết Đức Thế Tôn bị bệnh đau bụng nên liền đến dâng thuốc cho Ngài sử dụng. Với phước báu đó, đạo sĩ phát nguyện trong vòng luân hồi sẽ trở thành một người vô bệnh.
Vào thời kỳĐức Phật Padumuttara, Ngài sanh ra trong một gia đình giàu có tại thành Haṃsavatī. Một hôm, đi đến tịnh xá nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp thì thấy được Đức Thế Tôn đang tán dương một vị Tỳ-khưu có đặc hạnh đệ nhất về sự vô bệnh trong hàng Thinh văn đệ tử. Chàng thanh niên đó hoan hỷ nên đã thỉnh Đức Phật cùng chư Tăng đến tư gia làm phước cúng dường. Sau khi làm phước, chàng quỳ trước Đức Phật và phát nguyện muốn trở thành vị Thinh văn đệ tử đệ nhất về hạnh vô bệnh trong thời của Đức Phật vị lai.
IV. Kệ ngôn của Ngài Bakkula:
“Với ai những công việc
Cần phải làm từ trước
Về sau vị ấy mới
Có ý định muốn làm
Vị ấy tự phá hoại
Căn cứ địa an lạc
Về sau chịu khổ đau
Trong nung nấu hối tiếc”. (225)
“Hãy nói điều có làm
Không nói điều không làm
Bậc hiền trí biết rõ
Người chỉ nói, không làm”. (226)
“Níp bàn nhiệm màu lạc
Bậc Chánh Giác thuyết giảng
Không sầu muộn là tham
Thật sự là an ổn
Tại đấy, sự đau khổ
Được đoạn diệt hoàn toàn”. (227)

Tài liệu tham khảo:
1. Trung Bộ Kinh quyển II (HT Thích Minh Châu dịch Việt), bài kinh số 124 - Bakkulasutta.
2. Tiểu Bộ Kinh quyển III (HT Thích Minh Châu dịch Việt), Trưởng Lão Tăng Kệ, câu kệ ngôn 225, 226, 227.
3. Lời Truyền Kỳ Bậc Thánh (TT Thiện Phúc dịch Việt).

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

Ăn vừa đủ no

Ăn vừa đủ no

Trú ở Sāvatthi.
Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala thường ăn bữa ăn thịnh soạn.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala sau khi ăn xong, no đủ, thỏa thích, đi đến Thế Tôn sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Rồi Thế Tôn sau khi biết vua Pasenadi nước Kosala đã ăn xong, no đủ, thỏa thích, ngay lúc ấy nói lên bài kệ:
Con người thường chánh niệm,
Ðược ăn, biết phải chăng,
Chừng mực, cảm thọ mạnh,
Già chậm, tuổi thọ dài.
Lúc bấy giờ, thanh niên Bà-la-môn Sudassana đứng sau lưng vua Pasenadi nước Kosala.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala gọi thanh niên Sudassana:
- Này Bạn, hãy đi đến và học thuộc lòng bài kệ từ Thế Tôn và trong khi dọn ăn cho ta, hãy đọc lên bài kệ ấy. Ta sẽ cấp thường nhật cho ông một trăm đồng tiền vàng.
- Thưa vâng, Ðại vương.
Thanh niên Sudassana vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, học thuộc lòng bài kệ này từ Thế Tôn, và trong khi dọn cơm cho vua Pasenadi nước Kosala, đọc lên bài kệ này:
"Con người thường chánh niệm,
Ðược ăn, biết phải chăng,
Chừng mực, cảm thọ mạnh,
Già chậm, tuổi thọ dài."
Rồi vua Pasenadi nước Kosala tuần tự hạn chế, cho đến chỉ ăn nhiều nhất là một nàlika.
Vua Pasenadi sau một thời gian, thân thể được khỏe mạnh, tự tay thoa bóp chân tay và nói lên lời cảm hứng sau đây: "Ôi, thật sự Thế Tôn đã thương tưởng nghĩ đến lợi ích cho ta, cả hai đời hiện tại và vị lai!"
(Tương Ưng Bộ Kinh 1, Chương III - Tương Ưng Kosala,
Phẩm Thứ Hai, Phần Ðại Thực: Ăn Nhiều, Trang 186)

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

Bạn chân thật

Chương 7
BẠN BÈ

Bạn chân thật

Này Gia chủ tử, bốn loại bạn này phải được xem là bạn chân thật: Người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật; người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là bạn chân thật; người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là bạn chân thật; người bạn có lòng thương tưởng phải được xem là bạn chân thật.
Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật: Che chở cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở của cải cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa cho bạn khi bạn sợ hãi, khi bạn có công việc sẽ giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là người bạn chân thật.
Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật: Nói cho bạn biết điều bí mật của mình; giữ gìn kín điều bí mật của bạn; không bỏ bạn khi bạn gặp khó khăn; dám hy sinh thân mạng vì bạn. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật.
Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật: Ngăn chận bạn không làm điều ác; khuyến khích bạn làm điều thiện; cho bạn nghe điều bạn chưa nghe; cho bạn biết con đường lên cõi chư Thiên. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật.
Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật: Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn; ngăn chận những ai nói xấu bạn; khuyến khích những ai tán thán bạn. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:
Bạn sẵn sàng giúp đỡ,
Bạn chung thủy khổ vui,
Bạn khuyến khích lợi ích,
Bạn có lòng thương tưởng.
Biết rõ bốn bạn này,
Người trí phục vụ họ,
Như mẹ đối con ruột.
Người trí giữ giới luật,
Sáng như lửa đồi cao.
Người tích trữ tài sản,
Như cử chỉ con ong.
Tài sản được chồng chất,
Như ụ mối đùn cao,
Người cư xử như vậy,
Chất chứa các tài sản,
Vừa đủ để lợi ích
Cho chính gia đình mình.
Tài sản cần chia bốn
Ðể kết hợp bạn bè:
Một phần mình an hưởng,
Hai phần dành công việc,
Phần tư, phần để dành,
Phòng khó khăn hoạn nạn.

(Trường Bộ Kinh 2, Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt, Trang 538)

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

Nữ nhân không thể làm

Nữ nhân không thể làm

Sự kiện này không xảy ra, này các Tỷ-kheo, không có được: Một phụ nữ có thể là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sự kiện này không xảy ra. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: Người đàn ông có thể là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sự kiện này có xảy ra.
Sự kiện này không xảy ra, này các Tỷ-kheo, không có được: Một phụ nữ có thể là vị Chuyển Luân Vương, sự kiện này không xảy ra. Và sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: Một người đàn ông có thể là vị Chuyển Luân Vương, sự kiện này có xảy ra.
Sự kiện này không xảy ra, này các Tỷ-kheo, không có được: Một phụ nữ có thể là vị Ðế Thích (Sakka), sự kiện này không xảy ra. Và sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo, một người đàn ông có thể là Vị Ðế Thích, sự kiện này có xảy ra.
Sự kiện này không xảy ra, này các Tỷ-kheo, không có được: Một phụ nữ có thể là Ác Ma, sự kiện này không xảy ra. Và sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo, một người đàn ông có thể là Ác Ma, sự kiện này có xảy ra.
Sự kiện này không xảy ra, này các Tỷ-kheo, không có được: Một phụ nữ có thể là Phạm Thiên, sự kiện này không xảy ra. Và sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo, một người đàn ông có thể là Phạm Thiên, sự kiện này có xảy ra.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1, Chương Một Pháp,
Phẩm Không Thể Có Ðược, Phần Chấp Nhận Các Hành Là Thường Còn, trang 60)

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

Con gái sắp về nhà chồng



Con gái sắp về nhà chồng

Một thời, Thế Tôn trú ở Bhaddiya, trong rừng Jāti. Rồi Uggaha, cháu trai của Mendaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Uggaha, cháu trai của Mendaka bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nhận lời mời của con, ngày mai đến dùng bữa ăn, với Thế Tôn là người thứ tư.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Uggaha, cháu trai của Mendaka biết được Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của Uggaha, cháu trai của Mendaka; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Uggaha, cháu trai của Mendaka, với tay của mình thân mời và làm cho thỏa mãn Thế Tôn với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm. Rồi Uggaha, cháu trai của Mendaka, sau khi Thế Tôn dùng bữa ăn xong, tay rời khỏi bát, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Uggaha, cháu trai của Mendaka bạch Thế Tôn:
- Những đứa con gái này của con, bạch Thế Tôn, sẽ đi về nhà chồng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy giáo giới chúng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy khuyên dạy chúng, để chúng được hạnh phúc an lạc lâu dài.
Rồi Thế Tôn nói với các người con gái ấy:
- Này các thiếu nữ, các Con hãy học tập như sau: "Ðối với những người chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị ấy, chúng ta sẽ thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương." Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Những ai, chồng ta kính trọng, như mẹ, cha, Sa-môn, Bà-la-môn, chúng ta sẽ tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và khi họ đến, chúng ta sẽ dâng hiến họ chỗ ngồi và nước." Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Phàm có những công nghiệp trong nhà, hoặc thuộc về len vải hay vải bông, ở đây, chúng ta sẽ phải thông thạo, không được biếng nhác, tự tìm hiểu phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm." Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, chúng ta sẽ phải biết công việc của họ với công việc đã làm; chúng ta sẽ phải biết sự thiếu sót của họ với công việc không làm. Chúng ta sẽ biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh. Chúng ta sẽ chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo phần của mình". Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, chúng ta cần phải phòng hộ, bảo vệ chúng, và sẽ gìn giữ để khỏi ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại". Như vậy, này các Thiếu nữ, các con cần phải học tập. Thành tựu năm pháp này, này các Thiếu nữ, người đàn bà, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên có thân khả ái.
Hãy thường thương yêu chồng,
Luôn nỗ lực cố gắng,
Người đem lại lạc thú,
Chớ khinh thường người chồng,
Chớ làm chồng không vui,
Chớ làm chồng tức tối,
Với những lời ganh tị.
Chồng cung kính những ai,
Hãy đảnh lễ tất cả,
Vì nàng, người có trí.
Hoạt động thật nhanh nhẹn,
Giữa các người làm việc,
Xử sự thật khả ái,
Biết giữ tài sản chồng.
Người vợ xử như vậy,
Làm thỏa mãn ước vọng,
Ưa thích của người chồng,
Sẽ được sanh tại chỗ,
Các chư thiên khả ái.

(Tăng Chi Bộ Kinh 2, Phẩm Sumanā,
Phần Uggaha, Người Gia Chủ, Trang 358 )

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

Những hạng vợ



Chương 6
VỢ CHỒNG – NAM NỮ

Những hạng vợ
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvavatthī, tại Jetavana, khu vườn ông Anāthapiṇḍika. Rồi Thế Tôn đắp y, vào buổi sáng, cầm y bát, đi đến trú xứ của Anāthapiṇḍika; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Lúc bấy giờ, trong trú xứ của gia chủ Anāthapiṇḍika có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng. Rồi Anāthapiṇḍika đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anāthapiṇḍika đang ngồi xuống một bên:
- Này Gia chủ, vì sao trong nhà của Ông lại có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng như những người đánh cá đang giành giựt cá?
- Bạch Thế Tôn, có nàng dâu Sujātā giàu có đến đây từ một gia đình giàu có. Nàng không vâng lời mẹ chồng, không vâng lời cha chồng, không vâng lời chồng, cũng không cung kính, không tôn trọng, không lễ bái, không cúng dường Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cho gọi nàng dâu Sujātā:
- Hãy đến đây Sujātā!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Nàng dâu Sujātā vâng đáp Thế Tôn, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với nàng dâu Sujātā đang ngồi một bên:
- Này Sujātā có bảy loại vợ này cho người đàn ông. Thế nào là bảy? Vợ như người sát nhân, vợ như người ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ, vợ như người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ. Này Sujātā, có bảy loại vợ cho người đàn ông. Và con thuộc loại vợ nào?
- Bạch Thế Tôn, lời dạy tóm tắt này của Thế Tôn, con không hiểu rõ ý nghĩa một cách rộng rãi. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp cho con để con có thể hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi lời dạy tóm tắt này của Thế Tôn.
- Vậy này Sujātā, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng Sujātā vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Ai tâm bị uế nhiễm,
Không từ mẫn thương người,
Thích thú những người khác,
Khinh rẻ người chồng mình,
Bị mua chuộc bằng tiền,
Hăng say giết hại người,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ sát nhân.

Còn hạng nữ nhân nào,
Tiêu xài tài sản chồng,
Do công nghiệp đem lại,
Hay thương nghiệp, nông nghiệp,
Do vậy, nếu muốn trộm,
Dầu có ít đi nữa,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ ăn trộm.

Không ưa thích làm việc,
Biếng nhác, nhưng ăn nhiều,
Ác khẩu và bạo ác,
Phát ngôn lời khó chịu,
Mọi cố gắng của chồng,
Ðàn áp và chỉ huy,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi là vợ chủ nhân.

Ai luôn luôn từ mẫn,
Có lòng thương xót người,
Săn sóc giúp đỡ chồng,
Như mẹ chăm sóc con,
Tài sản chồng cất chứa,
Biết hộ trì gìn giữ,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như mẹ,

Ai như người em gái,
Ðối xử với chị lớn,
Biết cung kính tôn trọng,
Ðối với người chồng mình,
Với tâm biết tàm quí,
Tùy thuận phục vụ chồng,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như chị.

Ai ở đời thấy chồng,
Tâm hoan hỷ vui vẻ,
Như người bạn tốt lành,
Ðã lâu từ xa về,
Sanh gia đình hiền đức,
Giữ giới, dạ trung thành,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như bạn.

Không tức giận, an tịnh,
Không sợ hình phạt, trượng,
Tâm tư không hiềm hận,
Nhẫn nhục đối với chồng,
Không phẫn nộ tức giận,
Tùy thuận lời chồng dạy,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ nữ tỳ.

Ở đời các hạng vợ,
Ðược gọi vợ sát nhân,
Kể cả vợ ăn trộm,
Và cả vợ chủ nhân,
Vợ ấy không giữ giới,
Ác khẩu và vô lễ
Khi thân hoại mạng chung,
Bị sanh vào địa ngục.

Ở đời các hạng vợ,
Như mẹ, chị và bạn,
Và người vợ được gọi,
Là vợ như nữ tỳ,
An trú trên giới đức,
Khéo phòng hộ lâu ngày,
Khi thân hoại mạng chung,
Ðược sanh lên thiện thú.
Này Sujātā, có bảy loại vợ này đối với người đàn ông. Con thuộc hạng người nào?
- Bạch Thế Tôn, bắt đầu từ hôm nay, Thế Tôn hãy xem con là người vợ đối với chồng như người vợ nữ tỳ.
(Tăng Chi Bộ Kinh 3, Chương Bảy Pháp,
Phẩm Không Tuyên Bố, phần Các Người Vợ, trang 404)

Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2011

Vì sao cha mẹ muốn sanh con trai?

Vì sao cha mẹ muốn sanh con trai?

- Thấy năm điều này, này các Tỷ-kheo, mẹ cha muốn con trai sanh trong gia đình. Thế nào là năm? Ðược giúp đỡ, sẽ giúp đỡ chúng ta; hay sẽ làm công việc cho chúng ta; sẽ duy trì lâu dài truyền thống gia đình; sẽ tiếp tục di sản thừa hưởng; sẽ cúng dường hiến vật cho các hương linh bị mệnh chung.
Do thấy năm điểm này, này các Tỷ-kheo, mẹ cha muốn con trai sanh trong gia đình.

(Tăng Chi Bộ Kinh 2, Chương Năm Pháp,
Phẩm Sumanā, Phần Con Trai, Trang 371)

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

Trai hay gái cũng đều là con

Chương 5
CHA MẸ - CON CÁI

Trai hay gái cũng đều là con

Một thời Thế Tôn ở tại Sāvatthi, Pubbārāma (Ðông Viên), tại lâu đài Migāramātu (Lộc Tử Mẫu giảng đường).
Lúc bấy giờ, Thế Tôn vào buổi chiều, từ chỗ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, và đến ngồi tại mái hiên phía cửa ngoài.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Rồi một người đi đến vua Pasenadi nước Kosala và báo tin kề bên tai vua Pasenadi nước Kosala: "Thưa Ðại vương, hoàng hậu Mallikà đã sinh hạ được một người con gái".
Khi được nói vậy, vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ.
Rồi Thế Tôn, sau khi biết vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ, ngay lúc ấy nói lên bài kệ:
Này Nhân chủ, ở đời,
Có một số thiếu nữ,
Có thể tốt đẹp hơn,
So sánh với con trai,
Có trí tuệ, giới đức,
Khiến nhạc mẫu thán phục.
Rồi sinh được con trai,
Là anh hùng, quốc chủ,
Người con trai như vậy,
Của người vợ hiền đức,
Thật xứng là Ðạo sư,
Giáo giới cho toàn quốc.

(Tương Ưng Bộ Kinh 1, Chương III - Tương Ưng Kosala,
Phẩm Thứ Nhất, Phần Người Con Gái, Trang 193)

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2011

Cư sĩ đệ tử



Cư sĩ đệ tử

Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, này các Tỷ-kheo, đã quy y đầu tiên, tối thắng là các người buôn bán Tapassu Bhallika.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, bố thí, này các Tỷ-kheo, tối thắng là gia chủ Sudatta Anāthapiṇḍika.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, thuyết pháp, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Citta Macchikassandika.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, nhiếp phục một hội chúng nhờ Bốn nhiếp pháp, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Hatthaka Āḷavaka.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, bố thí các món ăn thượng vị, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Mahānāma Sakka.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, bố thí các món đồ khả ý, này các Tỷ-kheo, tối thắng là gia chủ Ugga Vesālika.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, hộ trì Tăng chúng, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Hatthigàmala Uggata.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, có lòng tịnh tín bất động, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sūra Ambaṭṭha.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, được dân chúng kính mến, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Jīvaka Komārabhacca.
Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta, nói chuyện một cách thân mật, này các Tỷ-kheo, tối thắng là gia chủ Nakulapitā.

(Tăng Chi Bộ Kinh 1, Chương Một Pháp,
Phẩm Người Tối Thắng, Phần Nam Cư Sĩ, Trang 55)

Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, này các Tỷ-kheo, người đi đến quy y đầu tiên là Sujātā Seniyadhītā.
Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, bố thí, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Visākhā Migāramātā.
Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, nghe nhiều, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Khujjuttarā.
Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, trú từ tâm, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sāmāvatī.
Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, tu Thiền, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Uttarā Nandamātā.
Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, bố thí các món ăn thượng vị, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Suppavāsā Koliyadhītā.
Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, săn sóc người bệnh, này các Tỷ-kheo, tối thắng là nữ cư sĩ Suppiyā.
Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, có lòng tịnh tín bất động, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Kātiyānī.
Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, nói chuyện một cách thân mật, này các Tỷ-kheo, tối thắng là nữ gia chủ Nakulamātā.
Trong các vị nữ cư sĩ đệ tử của Ta, có lòng tịnh tín đối với lời nghe đồn tối thắng là Kāḷī, này các Tỷ-kheo, nữ cư sĩ ở Kulagharikā.

(Tăng Chi Bộ Kinh 1, Chương Một Pháp,
Phẩm Người Tối Thắng, Phần Nữ Cư Sĩ, Trang 56)

Thứ Hai, 12 tháng 9, 2011

Thinh văn đệ tử



Thinh văn đệ tử

Trong các đệ tử Tỷ-kheo đã lâu ngày của Ta, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Añña Koṇḍañña (A-nhã Kiều-trần-như).
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, đại trí tuệ, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sāriputta.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, có thần thông, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Mahāmoggallāna.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thuyết về hạnh đầu đà, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Mahākassapa.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thiên nhãn, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Anuruddha.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thuộc gia đình quý tộc, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Bhaddiya Kāḷigodhāyaputta.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, có âm thanh vi diệu, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Lakuṇṭaka (người lùn) Bhaddiya.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, rống tiếng rống con sư tử, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Piṇḍola Bhāradvāja.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thuyết pháp, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Puṇṇa Mantāṇiputta.
Trong các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thuyết giảng rộng rãi những điều được nói lên một cách vắn tắt, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Mahākaccāna.
Trong các vị Tỷ-kheo của Ta có thể dùng ý hóa thân, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Cullapanthaka.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thiện xảo về tâm thắng tiến, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Cullapanthaka.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thiện xảo về tưởng thắng tiến, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Mahāpanthaka.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, trú không có tranh luận, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Subhūti.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, đáng được cúng dường, tối thắng là Subhūti.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, tu ở rừng, tối thắng là Revata Khadiravaniya.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, tu Thiền, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Kankha Revata.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, tinh cần tinh tấn, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sono Koḷiviso.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, khéo nói, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sono Kuṭikaṇṇa.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, nhận được đồ cúng dường, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sīvali.
Trong các đệ tử Tỷ-kheo có tín thắng giải, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Vakkali.
Trong các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, ưa thích học tập, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Rāhula.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, xuất gia vì lòng tin, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Raṭṭhapāla.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, đầu tiên nhận phiếu ăn cơm, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Kuṇḍadhāna.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, đầy đủ biện tài, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Vaṅgīsa.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, dễ mến toàn diện, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Upasena Vaṅgantaputta.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, sửa soạn chỗ ngồi, chỗ nằm, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Dabba Mallaputta.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, được chư Thiên ái mộ, tối thắng là Pilindavaccha.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, có thắng trí mau lẹ, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Bāhiva Dārucītiya.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thuyết giảng vi diệu, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Kumāra Kassapa.
Trong các đệ tử Tỷ-kheo của Ta đạt được vô ngại giải, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Māhākoṭṭhita.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, được nghe nhiều, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Ānanda.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, đầy đủ ức niệm, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Ānanda
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, đầy đủ cử chỉ tốt đẹp này các Tỷ-kheo, tối thắng là Ānanda.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, đầy đủ sự kiên trì, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Ānanda.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thị giả, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Ānanda.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, có đại hội chúng, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Uruvela Kassapa.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, làm cho các gia đình hoan hỷ, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Kāludāyī.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, không có bệnh hoạn, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Bakkula.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, nhớ đến các đời sống quá khứ, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sobhita.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, trì Luật, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Upāli.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, giáo giới Tỷ-kheo-ni, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Nandaka.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, hộ trì các căn môn, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Nanda.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thiện xảo về hỏa giới, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sāgata.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, giáo giới Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Māhakappina.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, năng khởi biện tài, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Rādha.
Trong các vị đệ tử Tỷ-kheo của Ta, mang thô y, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Mogharājā.

(Tăng Chi Bộ Kinh 1, Chương Một Pháp,
Phẩm Người Tối Thắng, Phần Các Vị Tỷ Kheo, Trang 49)

Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni đã lâu ngày của Ta, tối thắng là Māhāpājapati Gotamī.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, đại trí tuệ, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Khemā.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, đầy đủ thần thông, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Uppalavannā.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, trì Luật, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Paṭācārā.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, thuyết pháp, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Dhammadinnā.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, tu Thiền, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Nandā.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, tinh cần tinh tấn, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Soṇā.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, thiên nhãn, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sakulā.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, có thắng trí mau lẹ, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Bhaddā Kundalakesā.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, nhớ đến các thời quá khứ, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Bhaddā Kapilānī.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, đã chứng đạt đại thắng trí, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Bhaddā Kaccana.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, mang thô y, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Kisāgotamī.
Trong các vị nữ đệ tử Tỷ-kheo-ni của Ta, đầy đủ tin thắng giải, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Sigalāmātā.

(Tăng Chi Bộ Kinh 1, Chương Một Pháp, Phẩm Người Tối Thắng, 
Phần Nữ Ðệ Tử Tỷ Kheo Ni, Trang 54)

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

Xuất gia là một việc khó



Xuất gia là một việc khó

Một thời, Tôn giả Sāriputta trú ở giữa dân chúng Magadha (Ma-kiệt-đà), làng Nālaka.
Rồi du sĩ Jambukhādaka đi đến Tôn giả Sāriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sāriputta những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ Jambukhādaka nói với Tôn giả Sāriputta:
- Này Hiền giả Sāriputta, trong Pháp luật này, cái gì là khó làm?
- Xuất gia, này Hiền giả, là điều khó làm trong Pháp luật này.
- Ðối với người đã xuất gia, này Hiền giả, cái gì là khó làm?
- Ðối với người đã xuất gia, này Hiền giả, hoan hỷ (abhirati) là điều khó làm.
- Này Hiền giả, đối với người đã hoan hỷ, cái gì là khó làm?
- Này Hiền giả, đối với người đã hoan hỷ, điều khó làm là sự thực hành đúng pháp và tùy pháp.
- Có lâu không, này Hiền giả, một người đã thực hành đúng pháp và tùy pháp có thể thành vị A-la-hán?
- Không lâu, này Hiền giả.

(Tương Ưng Bộ Kinh 4, Chương Iv - Tương Ưng
Jambukhādaka, Phần Khó Làm, Trang 416)