Cứ mỗi năm vào ngày 15 tháng 7 âm lịchluôn luôn là ngày hội tưng bừng “báo hiếu” của Phật tử Bắc Tông khi mừng ngày lễVu Lan Bồn, cho rằng đây là ngày lễ hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ, vàthành kính tri ân Tam Bảo, truyền tụng lâu dài câu chuyện của một nhân vật gọilà “Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát” thông qua sự tích “Mục Liên cứu mẹ”. Sự tíchnày lưu truyền rộng rãi trong dân gian, mà đối với nhiều người Việt Nam dù theođạo Phật hay không theo đạo Phật cũng ít nhiều biết đến, và mặc định cho rằngđây là một câu chuyện đẹp đáng ca ngợi và tôn vinh tinh thần hiếu kính với songthân. Tuy nhiên, khi cần phải nhìn nhận lại qua lăng kính của Chính Pháp, rõràng câu chuyện “Mục Liên Thanh Đề” lại lộ ra nguyên hình là ngụy tác của ngườiTrung Hoa, và kéo theo đó một vài quan niệm hết sức nực cười có liên quan đếnngày lễ Vu Lan Bồn cũng như những điều được “ngụy tạo” về sự hiếu kính cha mẹtrong Kinh điển Phật giáo Bắc Tông.
Những điều mạo ngụy này đã tồn tại lâudài, nhiều người Phật tử Bắc Tông rất sai lầm khi tin theo chúng, dẫn đến sai lạcvới Phật Pháp đúng nghĩa, do đó thông qua đây để đính chính lại cho quý vị đượchiểu rõ: đâu là chân chính, đâu là giả tạo? Đâu mới là Phật Pháp thật sự, cònđâu chỉ là quan niệm tín ngưỡng dân gian và những kinh điển ngụy tác của TrungHoa?
1.Sự tích “Mục Liên cứu mẹ” và “Phật thuyết Vu Lan Bồn Kinh”:
Trong quan niệm của Phật giáo Bắc Tông,chữ Vu Lan Bồn phát xuất từ tiếng Phạn là Ullambana (Ô-lam-bà-nhã), có nghĩa làdâng bát để cứu nạn treo ngược. Treo ngược ở đây là chỉ cho tội nhân bị đọa lạcnơi địa ngục. Phật giáo Trung Quốc bảo rằng ngày rằm tháng bảy là ngày xá tội ởđịa ngục, những vong linh sẽ được trở về dương gian thăm lại gia quyến hoặcsiêu sinh về cảnh giới an lành!!! Nếu xét theo quan điểm của Phật giáo NguyênThủy, gây ra nhân nghiệp dữ thì phải chịu ác báo trong ba đường dữ là Địa ngục(Niraya), Ngạ quỷ (Peta) và Súc sinh (Tiracchāna). Trong đó ở cảnh giới Địa ngụctùy theo nghiệp lực mà chịu lấy khổ báo, và tất nhiên nỗi thống khổ này chỉ chấmdứt khi nào nghiệp chướng của họ đã hoàn trả và rồi lại tiếp tục tái sinh chịunghiệp khác. Chắc chắn chưa bao giờ Chính Pháp bảo rằng có một ai đó có đủ sức“thần thông” hay “uy lực” mà có quyền ban bố sự ân xá cho chúng sinh địa ngụcbao giờ, dù cho đó là Diêm Vương hay Đức Phật. Không hiểu lí do vì sao, Phậtgiáo Bắc Truyền lại tạo ra một hình tượng gọi là “U Minh giáo chủ Địa TạngVương Bồ Tát” cùng với “Thập điện Diêm Vương” cứ vào mỗi năm sẽ xem xét tộinghiệp nặng nhẹ của tội chúng mà “châm chước” tha cho về thăm nhà hay là siêusinh về thiện thú. Thật không thể hiểu nổi, đang khi Phật Pháp khẳng định rằnggây ác nghiệp chịu ác quả, chưa bao giờ công nhận về một đấng siêu nhiên nào cóthể tùy ý mình mà “dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sinh” như quan niệm mà nhữngngười theo tín ngưỡng Bắc truyền nói đến. Nhân vật Địa Tạng Bồ Tát này có thuyếtbảo rằng chính là ngài Mục Kiền Liên, nhưng có thuyết nói là không phải. Chúngta chỉ vạch ra sự vô lí trong việc cho rằng ngày Vu Lan là lễ xá tội chúng sinhđịa ngục mà thôi, thông qua đó cho thấy tính phi nhân quả trong quan niệm này,hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với Phật Pháp Nguyên Thủy.
Lướt qua vấn đề này, chúng ta nói về ngụytác “Mục Liên Thanh Đề”. Trước khi phơi bày những điều vô lí trong sự tích nàythì cũng xin kể vắn tắt về nó:
Chuyện kể rằng: ngày xửa ngày xưa vàothời Đức Phật Thích Ca, có người con trai dòng Bà-la-môn tên là La Bốc, cha mấtsớm, mẹ là bà phu nhân Thanh Đề tham lam độc ác, không tin Tam Bảo. Có lần bàdâng lễ cúng dường Tăng, tuy nhiên chúng tăng lại đang nhận đồ cúng dường củangười nghèo, bà ta nổi sân đập mâm lễ xuống rồi bỏ về. Sau đó, vì muốn trả đũacác vị Tăng-già này, bà giả vờ mời họ đến nhà để dâng cúng thực phẩm, nhưng lạisai người giết chó rồi cắt thịt nhân làmbánh bao cúng dường trai tăng. Các vị Tăng vì giữ gìn Phạm-hạnh, đó là chỉ ănchay chứ không phạm giới ăn thịt, biết rằng trong bánh bao có thịt nên họ lặnglẽ bỏ nó vào gốc cây. Do ác nghiệp lừa phỉnh suýt khiến chư Tăng ăn thịt,bà Thanh Đề bị đọa địa ngục. Sau đó, con trai bà là La Bốc xuất gia tu hành, được Phật đặt cho pháp danh là Mục Liên.Mục Liên qua tinh tấn tu tập đã chứng A-la-hán, dùng “đạo nhãn” thấy mẹ mình đọalạc nơi địa ngục đói khổ bèn sinh lòng xót thương, ông mang chén cơm đến dângcho mẹ mình ăn nhưng vì tham sân của bà quá mạnh nên cơm hóa ra lửa. Mục Liên rơi lệ khóc than, bi ai thống thiếtbèn trở về dương gian hỏi Phật cách để cứu mẹ.
Còn về cách thức cứu mẹ thì được nhắc đếnrõ nét ở trong , cũng xin tạm dẫn racho quý vị xem:
“...Phậtdạy: Mẹ ông tội căn rất chặt, chẳng phải một mình sức ông giúp được. Ông tuy hiếuthuận vang động trời đất; thiên thần địa thần, tà ma ngoại đạo, Đạo sĩ, TứThiên Vương thần cũng không thể giúp được; phải tụ lực uy thần của chúng Tăngmười phương mới được giải thoát. Ta nay sẽ nói pháp cứu tế cho ông, khiến tất cảnạn đều lìa, ưu khổ tội chướng tiêu trừ.
Phật bảo MụcLiên: Mười phương chúng Tăng vào ngày mười lăm tháng bảy là lúc Tăng tự tứ, phảivì cha mẹ bảy đời, và cha mẹ hiện tiền trong ách nạn, bày đủ cơm trăm vị, nămthứ trái cây, nước rưới, bồn chậu, đồ dùng, thỏi hương dầu đốt, sàng phu ngọa cụ,thơm ngon nhất đời đựng trong bồn, cúng dường chúng Tăng đại đức mười phương.
Trong ngàynày, tất cả thánh chúng hoặc tại sơn gian thiền định, hoặc đắc tứ đạo quả, hoặcdưới cây kinh hành, hoặc lục thông tự tại giáo hóa Thanh Văn Duyên Giác, hoặcthập địa Bồ Tát đại nhân quyền hiện Tỳ Kheo, ở trong đại chúng sẽ đồng nhất tâmthọ nhận bát cơm Hòa La.
Đạo củathánh chúng đủ giới thanh tịnh, đức đó sâu như biển. Người có cúng dường tự tứTăng già này, cha mẹ hiện tại, hoặc cha mẹ bảy đời, sáu hàng quyến thuộc được rakhỏi khổ tam đồ, tùy thời giải thoát, y thực tự nhiên. Nếu cha mẹ của người cònhiện tiền thì phước lạc trăm năm, nếu cha mẹ quá vãng trong bảy đời được sanhlên trời, tự tại hóa sang nhập trong thiên hoa quang, thọ vô lượng khoái lạc.Thời Phật lệnh mười phương chúng Tăng đều đến trước chú nguyện cho thí chủ, chamẹ bảy đời, hành ý thiền định rồi sau thọ thực. Lúc mới nhận bồn, đầu tiên để tạitrước tháp Phật, chúng Tăng chú nguyện xong, rồi tự thọ thực.
Bấy giờ MụcLiên Tỳ Kheo và chúng đại Bồ Tát trong đại hội đều rất hoan hỷ, tiếng buồn rầukêu khóc của Mục Liên thích nhiên trừ diệt. Lúc này mẹ của Mục Liên tức trongngày này được thoát một kiếp khổ ngạ quỷ...”.[1]
Quý vị xin chú ý đến phần chữ in đậmtrong câu chuyện “Mục Liên cứu mẹ” ở trên và phần chữ in nghiêng trích từ này. Thoáng xem qua nhiều người cảmthấy xúc động, ngỡ rằng tấm lòng “đại hiếu” của cái gọi là “Mục Kiền Liên BồTát” thật vĩ đại, thật cảm động. Tuy nhiên, dùng tấm gương phản chiếu của ChínhPháp soi rọi sẽ nhận rõ những điểm hết sức phi logic trong đó. Gồm những điểmnhư sau:
- Thứ nhất, buồn cười ở câu “chỉ ăn chay chứ không phạm giới ăn thịt”.Nhiều người bên Phật giáo Bắc Tông xưa nay đều nghiễm nhiên cho điều ấy là đúngkhông cần cãi, đã tu thì phải ăn chay,không ăn chay thì không đắc đạo. Sai lầm! Phật Pháp Nguyên Thủy vốn không hềđề xướng bắt buộc phải ăn chay, Đức Phật khi còn tại thế cũng chưa bao giờ chếra cái luật này, và ngay cả các bậc Tỳ-kheo Thanh Văn cũng chẳng ai giữ giới ănchay không đụng vào thịt cá cả. Nếu nói theo kiểu của Bắc Tông, phải ăn chay mớithành đạo, vậy các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nậu Lâu Đàv.v... là những bậc Tỳ-kheo khất thực, ai cho gì ăn nấy, bất kể chay mặn, vậythì các vị ấy chưa hề chứng Thánh đạo giải thoát ư? Các vị ấy còn là phàm phuư? Luật Tạng (Vinaya) có chỗ nào nói là: “Cácngươi phải ăn chay, không được ăn mặn, không đụng vào thịt cá, ai phạm vào tứclà không phải đệ tử Phật” chăng? Rõ ràng khái niệm phải ăn chay là do bọntu sĩ Trung Hoa bịa đặt ra, gán cho Phật đã nói điều ấy. Trong khi theo quan điểmcủa Phật giáo Thượng Tọa bộ (Theravāda), Đức Phật thuở xưa đã cho phép tăng niđược quyền thụ dụng “Tam tịnh nhục”: không thấy, không nghe, không nghi. Khôngthấy con vật đó bị giết để đem đến làm thức ăn cho mình, không nghe tiếng con vậtkêu la để rồi bị dâng cho mình ăn, không nghi ngờ thịt con vật bị giết là đểdâng cho riêng mình. Lí do gì mà nói nhân vật Thanh Đề vì cúng “bánh bao thịt”cho các nhà sư mà đọa địa ngục???
- Thứ hai, pháp danh Mục Liên là cáigì? Còn tên gọi La Bốc là căn cứ vào đâu? Thời Phật tại thế, những Tỳ-kheo xuấtgia mới đầu còn chưa có pháp danh. Mục Kiền Liên là tên thật của ngài, tiếngPali gọi là Moggallāna, và theo một sốtài liệu thì cho rằng ngài còn có biệt danh là Kolita, chứ chưa bao giờ mang cái tên nào mà họ La tên Bốc, đã vậycòn có bà mẹ họ Lưu tên Thanh Đề. Đây hoàn toàn là cách bịa đặt nực cười củangười Tàu.
- Thứ ba, ngài Mục Kiền Liên dùng “đạonhãn” thấy mẹ đói khổ nơi ác thú bèn mang cơm đến cho mẹ ăn! Có A-la-hán nào “ngốc” thế không? Một vị tu hành giảithoát có thể thấu suốt các cõi giới khác chẳng lẽ họ không thừa biết thức ăn củacõi người và cõi ngạ quỷ khác nhau thế nào chăng? Mẹ ngài lúc này chỉ là mộtcon ma đói thì ăn bát cơm của nhân gian thế nào được? Chẳng lẽ ngài Mục KiềnLiên không nghĩ ra được điều này? Có bịa cũng phải bịa cho đáng tin chứ! Ngạ quỷchỉ dùng được “hương thực”, tức là thức ăn từ mùi, chứ đâu ăn được cơm cháo “đoạnthực” của thế gian được.
- Thứ tư, ngài Mục Kiền Liên rơi lệ khóc than, bi ai thống thiết rồichạy về dương gian “mách” với Phật! Có A-la-hán nào “hèn yếu” thế không? Một bậc chứng vô lậu có thể thông hiểu đượcphương pháp hóa độ chúng sinh, cách để giúp cho một chúng sinh đọa lạc có thểviễn ly khổ ách mà đạt được an vui không lí nào ngài Mục Kiền Liên không biết,cớ gì phải khóc sướt mướt như đứa trẻ ngây ngô đến thế. Hơn nữa, ta cũng biết mộtbậc A-la-hán thì đã dứt trừ phiền não, tại sao chỉ suy tư một cách tầm thường,từ việc đưa cơm cho mẹ và chỉ khóc than cho mẹ mình thôi, giống hệt như một kẻphàm phu thường tình vậy. Nếu ngài chứng đạo rồi thì chẳng lẽ không biết chúngsinh cũng đồng như cha mẹ trong vô lượng kiếp hay sao, tại sao không đưa cơmcho những chúng sinh đọa lạc khác hay khóc thương tất cả chúng sinh địa ngục ngạquỷ mà lại chỉ khóc cho mỗi người mẹ kiếp này của mình. Chuyện phi logic như thếnày mà các Phật tử Bắc Tông còn nhắm mắt tin bừa được ư?
- Thứ năm, là một đoạn trong Kinh VuLan Bồn, lời nói của Đức Phật: “...Ôngtuy hiếu thuận vang động trời đất; thiênthần địa thần, tà ma ngoại đạo, Đạo sĩ, Tứ Thiên Vương thần cũng không thểgiúp được...”. Ngài Mục Kiền Liên là một A-la-hán, địa vị hoàn toàn cao hơnnhững loại thiên thần, địa thần, ma đạo, đạo sĩ... tại sao Đức Phật lại đemngài sánh với họ được chứ, cứ y như Phật bảo rằng: “Ngay đến các thần tiên hay đạo sĩ và ma ngoại còn không cứu được kẻ đọađịa ngục, huống chi là tài cán của ngươi”. Thà như câu này Đức Phật nói chokẻ phàm phu còn chấp nhận được chứ làm sao lại dùng với bậc Thánh Tăng đệ tử củamình. Bịa đặt kinh điển cũng phải viết sao cho hợp lí chứ!!!
Vạch trần ra những điều trên để quý vịthấy tính bất hợp lí của câu chuyện “Mục Liên cứu mẹ” trên. Câu chuyện này dựatrên nền tảng của Kinh Vu Lan Bồn mà thêu dệt nên, vì thế suy ra nếu chuyện ấylà giả tạo thì Kinh Vu Lan Bồn cũng là ngụy kinh. Nói tới đây ắt hẳn rất nhiều Phậttử Bắc Tông cảm thấy “sốc” chăng? Vì chắc chắn đến ngày lễ Vu Lan, dưới máichùa chiền đạo tràng nghi ngút khói xộc nồng nặc như tiên cảnh Bồng Lai khiếnnhiều người ho sặc sụa kia lại còn có những Phật tử ngu muội cầm quyển Kinh Vu Lan Bồn tụng tụng niệm niệm như là lờiPhật ý Thánh mà nào có biết đó chính là ngụy tác của người Trung Hoa.
2.Nguồn gốc và mục đích ngụy tạo sự tích “Mục Liên cứu mẹ” cùng “Kinh Vu Lan Bồn”:
“Phật thuyết Vu Lan Bồn Kinh” là ngụytác, vậy nguồn gốc “mẹ đẻ” của nó là từ đâu? Cứ theo Đại Tạng Kinh, thì kinhnày do Sa-môn Trúc Pháp Hộ người nước Nguyệt Thị đời nhà Tây Tấn phiên dịch raHán văn. Tuy nhiên có thể Trúc Pháp Hộ không phải là dịch giả mà có khi là tácgiả của cuốn kinh này! Nhưng mà kinh này còn có một dị bản nữa là Phật thuyết Báo Ân Phụng Bồn Kinh>>của một người vô danh viết vào thời Đông Hán, đã vậy sang đến thời Đường lạicòn xuất hiện một cuốn gọi là TịnhĐộ Vu Lan Bồn Kinh>>, hai cuốn kinh này không rõ người dịch là ai chonên khả năng rất cao rằng đây là sản phẩm ngụy tạo của người Hán! Chính từ đómà sự tích “Mục Liên cứu mẹ” ra đời với nội dung câu chuyện đậm chất “Tàu”.
“Mục Liên cứu mẹ” nói về chuyện Đại HiếuMục Kiền Liên Bồ Tát cứu bà mẹ Thanh Đề đọa địa ngục thật ra được hình thànhvào đời nhà Đường, thông qua một cuốn truyện đậm chất tiểu thuyết có tên ngắn gọnlà Đại Mục Liên biến văn>>cũng được phát hiện một bản ở tại di tích Đôn Hoàng. Truyện này được lan truyềntrong quần chúng, thậm chí còn được dựng thành hí kịch, diễn ca trong các vở tuồngcổ. Vào đầu thời nhà Tống, triều đình Đại Tống Trung Hoa đã từng có lệnh cấm chỉkhông cho lưu hành truyện tích này vì tính hoang đường của nó, tuy nhiên cấm gìcũng chả được. Đến đầu thời Minh có một người viết ra cuốn Mục Liên cứu mẫu xuất ly địa ngục thăngthiên bửu quyển>>, sau đó lại có một người tên là Trịnh Chi Trân viếtra cuốn Mục Liên cứu mẫu hạnh hiếuhý văn>> gồm 3 quyển, rồi thời nhà Thanh lại biên ra cuốn Khuyến thiện kim khoa>> lưu hành sựtích này. Thế là trải qua bao thời gian từ lúc được “nhồi nặn” vào khoảng thế kỷthứ III Công nguyên, tức là phải hơn 800 năm sau thời Đức Phật nhập diệt thì“hài cốt” của chuyện cổ tích này mới được ra đời, rồi đi qua một quá trình dàisuốt từ nhà Đường, nhà Minh rồi nhà Thanh cho đến nay đã hoàn toàn “ra lò” mộtthứ “kiệt tác quái đản” có tên gọilà “Mục Liên Thanh Đề”.
Ôi chao, thứ sản phẩm giả tạo của TrungQuốc đã được phơi bày rành rành ra thế này, cũng nhằm để thức tỉnh cho quý vịPhật tử Bắc Tông nên nhận ra đâu là thật đâu là giả. Các vị có ngờ được không,rằng từ bao đời nay từ thời ông tổ ông cụ ông kị cho đến cha mẹ ông bà rồi tớimình qua hàng trăm năm rồi cứ ôm một thứ “huyền thoại cổ lỗ sĩ” chỉ là mớ “hàngdỏm” của bọn người Tàu dựng lên rồi quỳ lạy cung kính gọi đó là Phật Kinh Thánh Điển. Thế này có đángnguy hay không?
Sẵn đây cũng xin tuyên bố một sự thật“khủng khiếp” cho các vị hay: ngày lễ VuLan Bồn mà các vị mong mỏi thực ra là sản phẩm tưởng tượng và dựng lên bởi ngườiTrung Hoa. Phật giáo Đại Thừa Ấn Độ thuở xưa chưa từng có nghi lễ này, vàchắc chắn các môn phái Phật giáo hệ Sanskrit ở Ấn Độ trước khi bị tiêu diệtcũng chưa hề bày đặt ra lễ hội này, thậm chí nó rất ư xa lạ với ngay cả Phậtgiáo Tây Tạng. Bỗng dưng Trung Quốc lại dựng lên câu chuyện bịa đặt về ngài MụcKiền Liên cứu bà mẹ Lưu Thanh Đề cùng với Kinh Vu Lan Bồn và thế là các vị lấyngày rằm tháng bảy làm ngày Vu Lan. Các vị xin lưu ý một điều: ngày 14 tháng 7 âm lịch hàng năm thực chấtchính là ngày giỗ tổ theo phong tục cổ Trung Hoa, và trước khi có mặt Phật giáotại Trung Quốc thì một tôn giáo khác là Đạo giáo đã coi ngày rằm tháng 7 làngày cô hồn để cầu cúng. Nực cười thay! Xuất xứ của cái ngày mà các vị tônvinh là Lễ Vu Lan Báo Hiếu của nhà Phật thực chất ngày xưa chỉ là Lễ Rước Cô Hồncủa Đạo Lão giáo Trung Hoa và theo tín ngưỡng thờ giỗ ông bà của họ. Thế nào nhỉcác vị Phật tử Bắc Tông? Đọc đến đây quý vị đã sáng mắt chưa?
Nếu quý vị Phật tử Bắc Tông còn ngần ngạichưa tin tưởng thì xin đưa ra luận cứ cho các vị hết chối cãi. Đó là lí luận củamột vị hòa thượng người Hoa đã sáng lập Vạn Phật Thánh Thành ở Mỹ - ngài thượngnhân Tuyên Hóa – được coi là một danh tăng Trung Quốc. Chính Hòa thượng TuyênHóa đã khẳng định rằng: là sản phẩm ngụy tạo của người Hán nhằm củng cố sự chuyên chế củarường cột phong kiến, vốn lấy “trung hiếu” làm đầu cho dù là ngu trung hay nguhiếu. Vả lại ở trong Kinh này có rất nhiều sơ hở, chẳng hạn như: đàn tràngnày được thiết lập với sự cúng dường phẩm vật (còn gọi là cúng trai tăng), vànhờ đến 500 vị thánh tăng A-la-hán cùng chú nguyện vào, thì mẹ Ngài mới siêuthăng. Vậy thì tôn giả chúng ta bấy giờ lấy đâu ra nhiều phẩm vật cúng dường vàmời đâu ra dễ dàng 500 vị A-la-hán cùng một lúc nhỉ? Được biết, sau khi Đức Phậtnhập Niết-bàn, cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất chỉ có 499 vị, về sau cóngài A-nan bổ sung mới đủ 500 vị. Như thế, thời điểm tôn giả Mục Kiền Liên “cứumẹ” làm sao có được nhiều thánh tăng A-la-hán vậy?
Nếu tôn giả Mục Kiền Liên làm như vậy,thì các tôn giả khác cũng có mẹ hoặc cha hoặc bà con quyến thuộc bị đoạ địa ngục.Vậy thì tính sao đây? Lẽ nào làm được cho tôn giả Mục Kiền Liên mà vị khác lạikhông? Đây là sự thiếu công minh, chắc chắn không phải là chỉ dụ của Phật! Trongmột cuốn kinh của Phật giáo Bắc truyền là Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện>> kể, một người nữ Bà la môn,vì thương mẹ mình bị mất mà không biết thác sinh vào chốn nào, niệm tôn hiệu củaGiác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai chỉ một ngày một đêm thì người mẹ ấy từ địangục thác sanh vào cõi trời. Nếu so sánh với đây thì suy ra, 500 vị thánh tăngA-la-hán cùng chú nguyện chỉ bằng một người nữ Bà-la-môn? Cùng là kinh điển BắcTông mà lại mâu thuẫn với nhau như thế, cho thấy được sự vô lí hay nói thẳng ralà “ngu xuẩn trí thức” của người tácgiả bịa đặt ngụy kinh.
Kinh Vu Lan Bồn và sự tích “Mục Liên cứumẹ” ra đời trong hoàn cảnh vội vàng vì để đối phó với nền tư tưởng Trung Hoamang đậm chất “trung chính hiếu đạo” của Nho giáo. Đương thời những bậc sĩ phuNho giáo đã từng kết tội đạo Phật qua bốn điểm sau đây:
(1) “Ăn hại tốn cơm”: cho rằng tăng niPhật giáo không làm ăn sản xuất gì cả mà chỉ hưởng thụ phẩm vật cúng dường cũngnhư xây cất chùa chiền bởi tín đồ Phật tử.
(2) “Hủy bỏ râu tóc, bỏ nhà xuất gia,không tròn chữ hiếu”: người Tàu quan niệm râu tóc là cha mẹ ban cho, cắt râu cạotóc là bất hiếu; vả lại con cái ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, đằng này lại bỏ nhàđi tu hành khiến cha mẹ bơ vơ thương nhớ là nghịch đạo.
(3) “Phí lạm của công, hao tổn nhân lực”:cho rằng chùa chiền và tăng chúng càng phồn thịnh, đất đai và tiền của cứ dồncho chùa sẽ làm khánh kiệt quốc lực, đã vậy người xuất gia nhiều thì không sinhsản được, tổn mất nguồn nhân lực cho đất nước.
(4) “Vô ích trị quốc, yếm thế không tưởng”:bảo rằng đạo Phật với mớ giáo lí toàn bàn về chuyện siêu hình, chuyện tu hành,giác ngộ, chẳng đả động gì đến thế tục để cai trị cho quốc thái dân an. Kết tộitriết lí nhà Phật gây ra sự chán đời, nhàm lìa thế tục, mơ mộng hão huyền vềchuyện kiếp sau, chuyện luân hồi nhân quả hay giải thoát Niết-bàn mà không thểkiểm chứng thực tế hiện tại được.
Để đối phó với 4 lời kết tội này, đạoPhật đã phải xoay sở tìm tòi cách này pháp kia để phản biện lại, thậm chí nếutìm không ra trong giáo lí gốc thì sẵn sàng phải bịa ra giáo lí mới để phân bualại. Chỉ riêng với điểm thứ 2 là về trung hiếu, đạo Phật đành dựng ra câu chuyệnvề Mục Liên Thanh Đề cũng như “phịa” ra Kinh Vu Lan Bồn để khẳng định rằng đạolí của mình có nói đến trung hiếu, đó là cứu cha mẹ thoát khỏi khổ thú ác đạo.
Ở trên đã vạch trần sai lầm về cái gọilà “Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát” mà quý vị thường hay gắn thêm chữ “Nam mô” ởđằng trước. Vậy thì trong Kinh điển chính thống nguyên gốc về Mục Kiền Liên thậtsự là thế nào? Ai mới xứng đáng gọi là “Đại Hiếu”?
Ngài Mục Kiền Liên là một trong những đạiđệ tử của Đức Phật, gọi là “thần thông đệ nhất”. Tuy là bậc thần thông có nhiềutài phép nhưng tuyệt nhiên cũng không thể chiến thắng khỏi quả báo của quy luậtnhân quả. Về cuối đời ngài có một cái chết mà nói theo thế tục là rất thươngtâm. Vào một thuở nọ, những đạo sĩ phái Nagantha muốn giết ngài Mục Kiền Liênnhưng họ không muốn trực tiếp ra tay vì sợ tổn hại danh tiếng và phước nghiệp.Thế là chúng mướn một số tên cướp giết người để hạ sát Trường Lão lúc bấy giờđang ngụ tại xứ Hắc Nham gần thành Vương xá . Bọn sát nhân bao vây tịnh xá ,nhung lần đầu tôn giả dùng phép thần thông thoát qua lỗ khoá và lần thứ hai,tôn giả trỗ lên nóc nhà thoát được . Cứ thế suốt hai tháng trường bọn chúngkhông thể bắt được tôn giả. Đến tháng thứ ba, khi bọn giết người bao vây tu việnmột lần nữa , Tôn giả nhớ lại ác nghiệp còn phỉa trả do mình đã sai phạm trongtiền kiếp nên không dùng thần thông để thoát . Vì vậy ngài bị bắt và bọn sátnhân đánh đập ngài cho đến khi bao nhiêu xương cốt đều nát bấy. Sau đó chúng bỏthi thể của tôn giả vào bụi rậm , nghĩ rằng ngài đã chết . Tôn giả dùng sức mạnhThiền định để hồi sinh và đến yết kiến Đức Phật tại tinh xá Kỳ Viên.
Khi tôn giả bạch Phật là ngài sẽ nhậpVô-dư Niết-bàn tại Hắc Nham, gần thành Vương Xá , Đức Phật nói với tôn giả nênra đi sau khi thuyết pháp với hội chúng Tỳ kheo vì đây là lần cuối cùng ngià gặphọ . Thế là tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên thuyết pháp và lên đường sau khi đảnh lễĐức Phật bảy lần .
Tin Tôn giả qua đời trong tay bọn sátnhân tức tốc lan truyền nhanh chóng. Vua A Xà Thế ra lệnh cho quân lính truytìm tóm bắt bọn thủ phạm. Bọn sát nhân bị bắt và bị thiêu sống. Các vị Tỳ kheorất đau buồn cho cái chết của tôn giả và không hiểu tại sao một nhân vật nhưtôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên mà lại chết trong tay bọn sát nhân. Đức Phật bảocác chư vị ấy: "Này các Tỳ kheo ! Xét theo kiếp này Mục Kiền Liên đã sốngcuộc đời đạo hạnh thì lẽ ra ông ta không gặp phaỉ một cái chết như thế. Nhưngtrong một tiền kiếp, Ông ta đã phạm một tội ác lớn đối với cha mẹ mình là hai kẻmù loà. Lúc đầu, ông ta là một người con rất hiếu nhưng sau khi lập gia đình, vợông ta bắt đầu sinh chuyện, đề nghị ông tống khứ cha mẹ của ông đi. Ông ta lấyxe ngựa chở cha mẹ mù loà của mình vào môt khu rừng và tại đây, ông ta đập chếthai người, giả cách làm hai ông bà tin rằng một tên cướp đã đánh đập họ. Vì ácnghiệp đó nên ông ta chịu khổ lâu ngày là kiếp chót, ông ta đã bị chết trongtay bọn sát nhân .Bấy giờ Đức Phật xướng kệ như sau:
“Dùng hung khí trừng phạt
Ngườihiền thiện từ tâm .
Sẽbị nghiệp hành thân
Mộttrong mười oan nghiệt”.
[KệPháp Cú 137].
Như vậyngài Mục Kiền Liên không phải là “Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát” mà nhiều ngườilầm tưởng, ngài chỉ là một “Đại Thần Thông Mục Kiền Liên Đại Thanh Văn” mà thôi.Ngài viên tịch bởi cái chết bị bằm nát do phải trả một oan nghiệp bất hiếutrong tiền kiếp, chứ chẳng hề có xuống địa ngục cứu một bà mẹ nào gọi là ThanhĐề cả.
Gươnghiếu thảo đáng ra là một người đệ tử khác rất nổi tiếng của Đức Phật, đó làngàiSāriputta (Xá Lợi Phất). Tôn giảXá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài,bà Xá Lợi, vốn thông minh và có biệt tài hùng biện hằng mong con trai của mìnhsẽ trở thành một đại luận sư lỗi lạc bậc nhất đương thời. Ấy thế mà lớn lên, XáLợi Phất lại rủ bỏ tất cả để đi theo Sa-môn Gotama, trở thành trợ thủ đắc lực củaThế Tôn, lại dùng tài trí của mình quy thuận rất nhiều Bà-la-môn theo Phậtgiáo. Mặc dù rất thương và tôn trọng quyết định của con nhưng sự kiện Xá Lợi Phấtxuất gia đầu Phật đã khiến bà Xá Lợi thất vọng, đau buồn và không hề có thiện cảmvới Tăng đoàn.
Khi xuấtgia chứng quả A la hán rồi, Tôn giả Xá Lợi Phất biết rất rõ điều ấy. Ngài muốntrở về để thức tỉnh và chuyển hóa mẹ lắm, nhưng vì nhân duyên chưa chín muồinên đành phải chờ. Khi được tin Xá Lợi Phất cùng tùy tùng hơn 500 vị Tỳ kheo sắptrở về nhà, bà Xá Lợi vẫn hờ hững. Cuộc trùng phùng của tình mẫu tử sau hơn mấymươi năm xa cách chưa được bao lâu thì Tôn giả Xá Lợi Phất ngã bệnh. Ngài đauthật hay thị hiện thì ta không thể biết nhưng bà Xá Lợi thì tỏ ra rất lo lắng,bồn chồn. Bà Xá Lợi lò dò đến thăm con thì bỗng lóa mắt như lạc vào thế giới củathiên thần. Trong căn phòng của Tôn giả Xá Lợi Phất ngập tràn ánh sáng vơi vô sốchư thiên hào quang rực rỡ vây quanh. Không chỉ một mà nhiều đoàn thiên thần đếnthăm Tôn giả Xá Lợi Phất làm cho bà Xá Lợi ngạc nhiên và mừng rỡ vô cùng. Đâylà lần đầu tiên trong cuộc đời bà được chứng kiến cảnh huy hoàng, tráng lệ ấy. Bàta ngạc nhiên đến cùng cực khi biết các phái đoàn thiên thần đến thăm con bà lầnlượt là Tứ Đại Thiên Vương, Đế Thích và cả Đại Phạm thiên, đấng toàn năng mà bàhằng quy kính, tôn thờ. Một thoáng suy tư, bà Xá Lợi nghĩ rằng nếu con của tamà có oai lực lớn đến trời người đều cung kính như vậy thì Đấng Thế Tôn oai lựcvĩ đại đến dường nào. Nghĩ đến đây, bà Xá Lợi cảm nhận một niềm hỷ lạc tràn ngậpchâu thân, tinh thần thư thái vô cùng, niềm tịnh tín nơi Thế Tôn trong bà bừngphát. Nhân đó, Tôn giả Xá Lợi Phất tuần tự giải thích và xưng tán công đức siêutuyệt của Thế Tôn qua các phương diện giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoáttri kiến. Thật diệu kỳ, khi pháp thoại vừa chấm dứt thì bà Xá Lợi thành tựuPháp nhãn thanh tịnh, tin tưởng bất động vào Thế Tôn, chứng đắc Sơ quả Tu-đà-hoàn.
Thế làTôn giả Xá Lợi Phất đã làm tròn bổn phận hiếu đạo của người xuất gia. Tuy khôngsớm thăm tối viếng, cung phụng ngon ngọt… nhưng đã giúp mẹ thoát được lưới mê,bước vào dòng Thánh, phúc lạc muôn đời. Không chỉ hóa độ người mẹ trong hiện tại,đối với các bậc sinh thành trong quá khứ, Tôn giả Xá Lợi Phất cũng viên thànhhiếu đạo. Ngài đã từng độ thoát cho bà mẹ kiếp quá khứ của mình bị đọa ngạ quỷ,đây là y cứ theo “Ngạ quỷ sự” trong TiểuBộ Kinh.
Trongđời quá khứ có một phú gia ở thành Ba La Nại thường phát tâm cúng dường rộng lớnđến các Sa môn, Bà la môn và bố thí rộng rãi cho những người nghèo khó. Rồi mộthôm, phú gia bận đi làm ăn xa, trước khi đi dặn dò vợ chu toàn công việc bố thícúng dường. Ông đi rồi, người vợ không những chênh mảng trách nhiệm cúng dườngđược chồng giao phó mà còn biểu lộ thái độ khinh khi, sỉ nhục những người nghèokhổ. Vì tham lam bỏn sẻn, tạo ác nghiệp nặng nề nên khi từ trần bà tái sanh làmngạ quỷ chịu nhiều khốn khổ. Nhớ lại những công đức lành mà bà đã làm trong quákhứ, bà mong muốn được gặp Tôn giả Xá Lợi Phất liền tìm đến thành Vương Xá.
Khi đếngần tịnh thất của Tôn giả Xá Lợi Phất, nữ quỷ bị các hộ pháp thiện thần chặn lại,không cho vào. Nữ quỷ nói rằng trong năm kiếp về trước, ta là mẹ của Tôn giả XáLợi Phất, hãy cho phép ta vào thăm ngài. Khi thấy nữ quỷ, ngài Xá Lợi Phất liềnhỏi: Vì sao hình dung người tiều tụy, còn da bọc xương, khổ não đến thế này? Nữquỷ thưa rằng: Trong năm kiếp về trước tôi đã từng làm mẹ của Tôn giả. Nhưng vìcác ác nghiệp đã gây tạo nên giờ đây bị đọa vào cảnh khổ, không nhà cửa, khôngcó đủ đồ ăn thức uống, luôn bị đói khát hanh hạ… Xin Tôn giả rủ lòng thương, vìtôi mà phát tâm bố thí, cúng dường để thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ. Ngày hômsau, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng các Tỷ kheo đến gặp vua Tần Bà Sa La (Bimbisāra)trình bày sự việc, nhờ trợ duyên và được đức vua chấp thuận. Khi lễ vật chuẩn bịxong, Tôn giả Xá Lợi Phất thành tâm dâng cúng lên Đức Phật và chư Tăng khắp mườiphương rồi hồi hướng công đức cho nữ quỷ.
Nhờphước báo ấy mà nữ quỷ mẹ Tôn giả Xá Lợi Phất trong quá khứ được thoát kiếp ngạquỷ, sanh lên cõi trời. Và vị thiên nữ với dung sắc thù thắng, xiêm y rực rỡ đãxuống trần gặp Tôn giả Mục Kiền Liên, nói rõ nhân duyên thoát khỏi cảnh khổ đồngthời bày tỏ niềm tri ân vô hạn đến Tôn giả Xá Lợi Phất.
Quacâu chuyện này quý vị Phật tử Bắc Tông nên suy ngẫm, danh từ “Bồ Tát Đại Hiếu”đáng nên trao cho vị nào?
Facebook: Vô Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét