Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

VẠCH TRẦN NGỤY TÁC “MỤC LIÊN THANH ĐỀ” VÀ NGỤY KINH “VU LAN BỒN”.

Cứ mỗi năm vào ngày 15 tháng 7 âm lịchluôn luôn là ngày hội tưng bừng “báo hiếu” của Phật tử Bắc Tông khi mừng ngày lễVu Lan Bồn, cho rằng đây là ngày lễ hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ, vàthành kính tri ân Tam Bảo, truyền tụng lâu dài câu chuyện của một nhân vật gọilà “Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát” thông qua sự tích “Mục Liên cứu mẹ”. Sự tíchnày lưu truyền rộng rãi trong dân gian, mà đối với nhiều người Việt Nam dù theođạo Phật hay không theo đạo Phật cũng ít nhiều biết đến, và mặc định cho rằngđây là một câu chuyện đẹp đáng ca ngợi và tôn vinh tinh thần hiếu kính với songthân. Tuy nhiên, khi cần phải nhìn nhận lại qua lăng kính của Chính Pháp, rõràng câu chuyện “Mục Liên Thanh Đề” lại lộ ra nguyên hình là ngụy tác của ngườiTrung Hoa, và kéo theo đó một vài quan niệm hết sức nực cười có liên quan đếnngày lễ Vu Lan Bồn cũng như những điều được “ngụy tạo” về sự hiếu kính cha mẹtrong Kinh điển Phật giáo Bắc Tông.
         Những điều mạo ngụy này đã tồn tại lâudài, nhiều người Phật tử Bắc Tông rất sai lầm khi tin theo chúng, dẫn đến sai lạcvới Phật Pháp đúng nghĩa, do đó thông qua đây để đính chính lại cho quý vị đượchiểu rõ: đâu là chân chính, đâu là giả tạo? Đâu mới là Phật Pháp thật sự, cònđâu chỉ là quan niệm tín ngưỡng dân gian và những kinh điển ngụy tác của TrungHoa?
         1.Sự tích “Mục Liên cứu mẹ” và “Phật thuyết Vu Lan Bồn Kinh”:
         Trong quan niệm của Phật giáo Bắc Tông,chữ Vu Lan Bồn phát xuất từ tiếng Phạn là Ullambana (Ô-lam-bà-nhã), có nghĩa làdâng bát để cứu nạn treo ngược. Treo ngược ở đây là chỉ cho tội nhân bị đọa lạcnơi địa ngục. Phật giáo Trung Quốc bảo rằng ngày rằm tháng bảy là ngày xá tội ởđịa ngục, những vong linh sẽ được trở về dương gian thăm lại gia quyến hoặcsiêu sinh về cảnh giới an lành!!! Nếu xét theo quan điểm của Phật giáo NguyênThủy, gây ra nhân nghiệp dữ thì phải chịu ác báo trong ba đường dữ là Địa ngục(Niraya), Ngạ quỷ (Peta) và Súc sinh (Tiracchāna). Trong đó ở cảnh giới Địa ngụctùy theo nghiệp lực mà chịu lấy khổ báo, và tất nhiên nỗi thống khổ này chỉ chấmdứt khi nào nghiệp chướng của họ đã hoàn trả và rồi lại tiếp tục tái sinh chịunghiệp khác. Chắc chắn chưa bao giờ Chính Pháp bảo rằng có một ai đó có đủ sức“thần thông” hay “uy lực” mà có quyền ban bố sự ân xá cho chúng sinh địa ngụcbao giờ, dù cho đó là Diêm Vương hay Đức Phật. Không hiểu lí do vì sao, Phậtgiáo Bắc Truyền lại tạo ra một hình tượng gọi là “U Minh giáo chủ Địa TạngVương Bồ Tát” cùng với “Thập điện Diêm Vương” cứ vào mỗi năm sẽ xem xét tộinghiệp nặng nhẹ của tội chúng mà “châm chước” tha cho về thăm nhà hay là siêusinh về thiện thú. Thật không thể hiểu nổi, đang khi Phật Pháp khẳng định rằnggây ác nghiệp chịu ác quả, chưa bao giờ công nhận về một đấng siêu nhiên nào cóthể tùy ý mình mà “dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sinh” như quan niệm mà nhữngngười theo tín ngưỡng Bắc truyền nói đến. Nhân vật Địa Tạng Bồ Tát này có thuyếtbảo rằng chính là ngài Mục Kiền Liên, nhưng có thuyết nói là không phải. Chúngta chỉ vạch ra sự vô lí trong việc cho rằng ngày Vu Lan là lễ xá tội chúng sinhđịa ngục mà thôi, thông qua đó cho thấy tính phi nhân quả trong quan niệm này,hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với Phật Pháp Nguyên Thủy.
         Lướt qua vấn đề này, chúng ta nói về ngụytác “Mục Liên Thanh Đề”. Trước khi phơi bày những điều vô lí trong sự tích nàythì cũng xin kể vắn tắt về nó:
         Chuyện kể rằng: ngày xửa ngày xưa vàothời Đức Phật Thích Ca, có người con trai dòng Bà-la-môn tên là La Bốc, cha mấtsớm, mẹ là bà phu nhân Thanh Đề tham lam độc ác, không tin Tam Bảo. Có lần bàdâng lễ cúng dường Tăng, tuy nhiên chúng tăng lại đang nhận đồ cúng dường củangười nghèo, bà ta nổi sân đập mâm lễ xuống rồi bỏ về. Sau đó, vì muốn trả đũacác vị Tăng-già này, bà giả vờ mời họ đến nhà để dâng cúng thực phẩm, nhưng lạisai người giết chó rồi cắt thịt nhân làmbánh bao cúng dường trai tăng. Các vị Tăng vì giữ gìn Phạm-hạnh, đó là chỉ ănchay chứ không phạm giới ăn thịt, biết rằng trong bánh bao có thịt nên họ lặnglẽ bỏ nó vào gốc cây. Do ác nghiệp lừa phỉnh suýt khiến chư Tăng ăn thịt,bà Thanh Đề bị đọa địa ngục. Sau đó, con trai bà là La Bốc xuất gia tu hành, được Phật đặt cho pháp danh là Mục Liên.Mục Liên qua tinh tấn tu tập đã chứng A-la-hán, dùng “đạo nhãn” thấy mẹ mình đọalạc nơi địa ngục đói khổ bèn sinh lòng xót thương, ông mang chén cơm đến dângcho mẹ mình ăn nhưng vì tham sân của bà quá mạnh nên cơm hóa ra lửa. Mục Liên rơi lệ khóc than, bi ai thống thiếtbèn trở về dương gian hỏi Phật cách để cứu mẹ.
         Còn về cách thức cứu mẹ thì được nhắc đếnrõ nét ở trong , cũng xin tạm dẫn racho quý vị xem:
         “...Phậtdạy: Mẹ ông tội căn rất chặt, chẳng phải một mình sức ông giúp được. Ông tuy hiếuthuận vang động trời đất; thiên thần địa thần, tà ma ngoại đạo, Đạo sĩ, TứThiên Vương thần cũng không thể giúp được; phải tụ lực uy thần của chúng Tăngmười phương mới được giải thoát. Ta nay sẽ nói pháp cứu tế cho ông, khiến tất cảnạn đều lìa, ưu khổ tội chướng tiêu trừ.
         Phật bảo MụcLiên: Mười phương chúng Tăng vào ngày mười lăm tháng bảy là lúc Tăng tự tứ, phảivì cha mẹ bảy đời, và cha mẹ hiện tiền trong ách nạn, bày đủ cơm trăm vị, nămthứ trái cây, nước rưới, bồn chậu, đồ dùng, thỏi hương dầu đốt, sàng phu ngọa cụ,thơm ngon nhất đời đựng trong bồn, cúng dường chúng Tăng đại đức mười phương.
         Trong ngàynày, tất cả thánh chúng hoặc tại sơn gian thiền định, hoặc đắc tứ đạo quả, hoặcdưới cây kinh hành, hoặc lục thông tự tại giáo hóa Thanh Văn Duyên Giác, hoặcthập địa Bồ Tát đại nhân quyền hiện Tỳ Kheo, ở trong đại chúng sẽ đồng nhất tâmthọ nhận bát cơm Hòa La.
         Đạo củathánh chúng đủ giới thanh tịnh, đức đó sâu như biển. Người có cúng dường tự tứTăng già này, cha mẹ hiện tại, hoặc cha mẹ bảy đời, sáu hàng quyến thuộc được rakhỏi khổ tam đồ, tùy thời giải thoát, y thực tự nhiên. Nếu cha mẹ của người cònhiện tiền thì phước lạc trăm năm, nếu cha mẹ quá vãng trong bảy đời được sanhlên trời, tự tại hóa sang nhập trong thiên hoa quang, thọ vô lượng khoái lạc.Thời Phật lệnh mười phương chúng Tăng đều đến trước chú nguyện cho thí chủ, chamẹ bảy đời, hành ý thiền định rồi sau thọ thực. Lúc mới nhận bồn, đầu tiên để tạitrước tháp Phật, chúng Tăng chú nguyện xong, rồi tự thọ thực.
         Bấy giờ MụcLiên Tỳ Kheo và chúng đại Bồ Tát trong đại hội đều rất hoan hỷ, tiếng buồn rầukêu khóc của Mục Liên thích nhiên trừ diệt. Lúc này mẹ của Mục Liên tức trongngày này được thoát một kiếp khổ ngạ quỷ...”.[1]
         Quý vị xin chú ý đến phần chữ in đậmtrong câu chuyện “Mục Liên cứu mẹ” ở trên và phần chữ in nghiêng trích từ này. Thoáng xem qua nhiều người cảmthấy xúc động, ngỡ rằng tấm lòng “đại hiếu” của cái gọi là “Mục Kiền Liên BồTát” thật vĩ đại, thật cảm động. Tuy nhiên, dùng tấm gương phản chiếu của ChínhPháp soi rọi sẽ nhận rõ những điểm hết sức phi logic trong đó. Gồm những điểmnhư sau:
         - Thứ nhất, buồn cười ở câu “chỉ ăn chay chứ không phạm giới ăn thịt”.Nhiều người bên Phật giáo Bắc Tông xưa nay đều nghiễm nhiên cho điều ấy là đúngkhông cần cãi, đã tu thì phải ăn chay,không ăn chay thì không đắc đạo. Sai lầm! Phật Pháp Nguyên Thủy vốn không hềđề xướng bắt buộc phải ăn chay, Đức Phật khi còn tại thế cũng chưa bao giờ chếra cái luật này, và ngay cả các bậc Tỳ-kheo Thanh Văn cũng chẳng ai giữ giới ănchay không đụng vào thịt cá cả. Nếu nói theo kiểu của Bắc Tông, phải ăn chay mớithành đạo, vậy các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nậu Lâu Đàv.v... là những bậc Tỳ-kheo khất thực, ai cho gì ăn nấy, bất kể chay mặn, vậythì các vị ấy chưa hề chứng Thánh đạo giải thoát ư? Các vị ấy còn là phàm phuư? Luật Tạng (Vinaya) có chỗ nào nói là: “Cácngươi phải ăn chay, không được ăn mặn, không đụng vào thịt cá, ai phạm vào tứclà không phải đệ tử Phật” chăng? Rõ ràng khái niệm phải ăn chay là do bọntu sĩ Trung Hoa bịa đặt ra, gán cho Phật đã nói điều ấy. Trong khi theo quan điểmcủa Phật giáo Thượng Tọa bộ (Theravāda), Đức Phật thuở xưa đã cho phép tăng niđược quyền thụ dụng “Tam tịnh nhục”: không thấy, không nghe, không nghi. Khôngthấy con vật đó bị giết để đem đến làm thức ăn cho mình, không nghe tiếng con vậtkêu la để rồi bị dâng cho mình ăn, không nghi ngờ thịt con vật bị giết là đểdâng cho riêng mình. Lí do gì mà nói nhân vật Thanh Đề vì cúng “bánh bao thịt”cho các nhà sư mà đọa địa ngục???
         - Thứ hai, pháp danh Mục Liên là cáigì? Còn tên gọi La Bốc là căn cứ vào đâu? Thời Phật tại thế, những Tỳ-kheo xuấtgia mới đầu còn chưa có pháp danh. Mục Kiền Liên là tên thật của ngài, tiếngPali gọi là Moggallāna, và theo một sốtài liệu thì cho rằng ngài còn có biệt danh là Kolita, chứ chưa bao giờ mang cái tên nào mà họ La tên Bốc, đã vậycòn có bà mẹ họ Lưu tên Thanh Đề. Đây hoàn toàn là cách bịa đặt nực cười củangười Tàu.
         - Thứ ba, ngài Mục Kiền Liên dùng “đạonhãn” thấy mẹ đói khổ nơi ác thú bèn mang cơm đến cho mẹ ăn! Có A-la-hán nào “ngốc” thế không? Một vị tu hành giảithoát có thể thấu suốt các cõi giới khác chẳng lẽ họ không thừa biết thức ăn củacõi người và cõi ngạ quỷ khác nhau thế nào chăng? Mẹ ngài lúc này chỉ là mộtcon ma đói thì ăn bát cơm của nhân gian thế nào được? Chẳng lẽ ngài Mục KiềnLiên không nghĩ ra được điều này? Có bịa cũng phải bịa cho đáng tin chứ! Ngạ quỷchỉ dùng được “hương thực”, tức là thức ăn từ mùi, chứ đâu ăn được cơm cháo “đoạnthực” của thế gian được.
         - Thứ tư, ngài Mục Kiền Liên rơi lệ khóc than, bi ai thống thiết rồichạy về dương gian “mách” với Phật! Có A-la-hán nào “hèn yếu” thế không? Một bậc chứng vô lậu có thể thông hiểu đượcphương pháp hóa độ chúng sinh, cách để giúp cho một chúng sinh đọa lạc có thểviễn ly khổ ách mà đạt được an vui không lí nào ngài Mục Kiền Liên không biết,cớ gì phải khóc sướt mướt như đứa trẻ ngây ngô đến thế. Hơn nữa, ta cũng biết mộtbậc A-la-hán thì đã dứt trừ phiền não, tại sao chỉ suy tư một cách tầm thường,từ việc đưa cơm cho mẹ và chỉ khóc than cho mẹ mình thôi, giống hệt như một kẻphàm phu thường tình vậy. Nếu ngài chứng đạo rồi thì chẳng lẽ không biết chúngsinh cũng đồng như cha mẹ trong vô lượng kiếp hay sao, tại sao không đưa cơmcho những chúng sinh đọa lạc khác hay khóc thương tất cả chúng sinh địa ngục ngạquỷ mà lại chỉ khóc cho mỗi người mẹ kiếp này của mình. Chuyện phi logic như thếnày mà các Phật tử Bắc Tông còn nhắm mắt tin bừa được ư?
         - Thứ năm, là một đoạn trong Kinh VuLan Bồn, lời nói của Đức Phật: “...Ôngtuy hiếu thuận vang động trời đất; thiênthần địa thần, tà ma ngoại đạo, Đạo sĩ, Tứ Thiên Vương thần cũng không thểgiúp được...”. Ngài Mục Kiền Liên là một A-la-hán, địa vị hoàn toàn cao hơnnhững loại thiên thần, địa thần, ma đạo, đạo sĩ... tại sao Đức Phật lại đemngài sánh với họ được chứ, cứ y như Phật bảo rằng: “Ngay đến các thần tiên hay đạo sĩ và ma ngoại còn không cứu được kẻ đọađịa ngục, huống chi là tài cán của ngươi”. Thà như câu này Đức Phật nói chokẻ phàm phu còn chấp nhận được chứ làm sao lại dùng với bậc Thánh Tăng đệ tử củamình. Bịa đặt kinh điển cũng phải viết sao cho hợp lí chứ!!!
         Vạch trần ra những điều trên để quý vịthấy tính bất hợp lí của câu chuyện “Mục Liên cứu mẹ” trên. Câu chuyện này dựatrên nền tảng của Kinh Vu Lan Bồn mà thêu dệt nên, vì thế suy ra nếu chuyện ấylà giả tạo thì Kinh Vu Lan Bồn cũng là ngụy kinh. Nói tới đây ắt hẳn rất nhiều Phậttử Bắc Tông cảm thấy “sốc” chăng? Vì chắc chắn đến ngày lễ Vu Lan, dưới máichùa chiền đạo tràng nghi ngút khói xộc nồng nặc như tiên cảnh Bồng Lai khiếnnhiều người ho sặc sụa kia lại còn có những Phật tử ngu muội cầm quyển Kinh Vu Lan Bồn tụng tụng niệm niệm như là lờiPhật ý Thánh mà nào có biết đó chính là ngụy tác của người Trung Hoa.
         2.Nguồn gốc và mục đích ngụy tạo sự tích “Mục Liên cứu mẹ” cùng “Kinh Vu Lan Bồn”:
         “Phật thuyết Vu Lan Bồn Kinh” là ngụytác, vậy nguồn gốc “mẹ đẻ” của nó là từ đâu? Cứ theo Đại Tạng Kinh, thì kinhnày do Sa-môn Trúc Pháp Hộ người nước Nguyệt Thị đời nhà Tây Tấn phiên dịch raHán văn. Tuy nhiên có thể Trúc Pháp Hộ không phải là dịch giả mà có khi là tácgiả của cuốn kinh này! Nhưng mà kinh này còn có một dị bản nữa là Phật thuyết Báo Ân Phụng Bồn Kinh>>của một người vô danh viết vào thời Đông Hán, đã vậy sang đến thời Đường lạicòn xuất hiện một cuốn gọi là TịnhĐộ Vu Lan Bồn Kinh>>, hai cuốn kinh này không rõ người dịch là ai chonên khả năng rất cao rằng đây là sản phẩm ngụy tạo của người Hán! Chính từ đómà sự tích “Mục Liên cứu mẹ” ra đời với nội dung câu chuyện đậm chất “Tàu”.
         “Mục Liên cứu mẹ” nói về chuyện Đại HiếuMục Kiền Liên Bồ Tát cứu bà mẹ Thanh Đề đọa địa ngục thật ra được hình thànhvào đời nhà Đường, thông qua một cuốn truyện đậm chất tiểu thuyết có tên ngắn gọnlà Đại Mục Liên biến văn>>cũng được phát hiện một bản ở tại di tích Đôn Hoàng. Truyện này được lan truyềntrong quần chúng, thậm chí còn được dựng thành hí kịch, diễn ca trong các vở tuồngcổ. Vào đầu thời nhà Tống, triều đình Đại Tống Trung Hoa đã từng có lệnh cấm chỉkhông cho lưu hành truyện tích này vì tính hoang đường của nó, tuy nhiên cấm gìcũng chả được. Đến đầu thời Minh có một người viết ra cuốn Mục Liên cứu mẫu xuất ly địa ngục thăngthiên bửu quyển>>, sau đó lại có một người tên là Trịnh Chi Trân viếtra cuốn Mục Liên cứu mẫu hạnh hiếuhý văn>> gồm 3 quyển, rồi thời nhà Thanh lại biên ra cuốn Khuyến thiện kim khoa>> lưu hành sựtích này. Thế là trải qua bao thời gian từ lúc được “nhồi nặn” vào khoảng thế kỷthứ III Công nguyên, tức là phải hơn 800 năm sau thời Đức Phật nhập diệt thì“hài cốt” của chuyện cổ tích này mới được ra đời, rồi đi qua một quá trình dàisuốt từ nhà Đường, nhà Minh rồi nhà Thanh cho đến nay đã hoàn toàn “ra lò” mộtthứ “kiệt tác quái đản” có tên gọilà “Mục Liên Thanh Đề”.
         Ôi chao, thứ sản phẩm giả tạo của TrungQuốc đã được phơi bày rành rành ra thế này, cũng nhằm để thức tỉnh cho quý vịPhật tử Bắc Tông nên nhận ra đâu là thật đâu là giả. Các vị có ngờ được không,rằng từ bao đời nay từ thời ông tổ ông cụ ông kị cho đến cha mẹ ông bà rồi tớimình qua hàng trăm năm rồi cứ ôm một thứ “huyền thoại cổ lỗ sĩ” chỉ là mớ “hàngdỏm” của bọn người Tàu dựng lên rồi quỳ lạy cung kính gọi đó là Phật Kinh Thánh Điển. Thế này có đángnguy hay không?
         Sẵn đây cũng xin tuyên bố một sự thật“khủng khiếp” cho các vị hay: ngày lễ VuLan Bồn mà các vị mong mỏi thực ra là sản phẩm tưởng tượng và dựng lên bởi ngườiTrung Hoa. Phật giáo Đại Thừa Ấn Độ thuở xưa chưa từng có nghi lễ này, vàchắc chắn các môn phái Phật giáo hệ Sanskrit ở Ấn Độ trước khi bị tiêu diệtcũng chưa hề bày đặt ra lễ hội này, thậm chí nó rất ư xa lạ với ngay cả Phậtgiáo Tây Tạng. Bỗng dưng Trung Quốc lại dựng lên câu chuyện bịa đặt về ngài MụcKiền Liên cứu bà mẹ Lưu Thanh Đề cùng với Kinh Vu Lan Bồn và thế là các vị lấyngày rằm tháng bảy làm ngày Vu Lan. Các vị xin lưu ý một điều: ngày 14 tháng 7 âm lịch hàng năm thực chấtchính là ngày giỗ tổ theo phong tục cổ Trung Hoa, và trước khi có mặt Phật giáotại Trung Quốc thì một tôn giáo khác là Đạo giáo đã coi ngày rằm tháng 7 làngày cô hồn để cầu cúng. Nực cười thay! Xuất xứ của cái ngày mà các vị tônvinh là Lễ Vu Lan Báo Hiếu của nhà Phật thực chất ngày xưa chỉ là Lễ Rước Cô Hồncủa Đạo Lão giáo Trung Hoa và theo tín ngưỡng thờ giỗ ông bà của họ. Thế nào nhỉcác vị Phật tử Bắc Tông? Đọc đến đây quý vị đã sáng mắt chưa?
         Nếu quý vị Phật tử Bắc Tông còn ngần ngạichưa tin tưởng thì xin đưa ra luận cứ cho các vị hết chối cãi. Đó là lí luận củamột vị hòa thượng người Hoa đã sáng lập Vạn Phật Thánh Thành ở Mỹ - ngài thượngnhân Tuyên Hóa – được coi là một danh tăng Trung Quốc. Chính Hòa thượng TuyênHóa đã khẳng định rằng: là sản phẩm ngụy tạo của người Hán nhằm củng cố sự chuyên chế củarường cột phong kiến, vốn lấy “trung hiếu” làm đầu cho dù là ngu trung hay nguhiếu. Vả lại ở trong Kinh này có rất nhiều sơ hở, chẳng hạn như: đàn tràngnày được thiết lập với sự cúng dường phẩm vật (còn gọi là cúng trai tăng), vànhờ đến 500 vị thánh tăng A-la-hán cùng chú nguyện vào, thì mẹ Ngài mới siêuthăng. Vậy thì tôn giả chúng ta bấy giờ lấy đâu ra nhiều phẩm vật cúng dường vàmời đâu ra dễ dàng 500 vị A-la-hán cùng một lúc nhỉ? Được biết, sau khi Đức Phậtnhập Niết-bàn, cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất chỉ có 499 vị, về sau cóngài A-nan bổ sung mới đủ 500 vị. Như thế, thời điểm tôn giả Mục Kiền Liên “cứumẹ” làm sao có được nhiều thánh tăng A-la-hán vậy?
         Nếu tôn giả Mục Kiền Liên làm như vậy,thì các tôn giả khác cũng có mẹ hoặc cha hoặc bà con quyến thuộc bị đoạ địa ngục.Vậy thì tính sao đây? Lẽ nào làm được cho tôn giả Mục Kiền Liên mà vị khác lạikhông? Đây là sự thiếu công minh, chắc chắn không phải là chỉ dụ của Phật! Trongmột cuốn kinh của Phật giáo Bắc truyền là Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện>> kể, một người nữ Bà la môn,vì thương mẹ mình bị mất mà không biết thác sinh vào chốn nào, niệm tôn hiệu củaGiác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai chỉ một ngày một đêm thì người mẹ ấy từ địangục thác sanh vào cõi trời. Nếu so sánh với đây thì suy ra, 500 vị thánh tăngA-la-hán cùng chú nguyện chỉ bằng một người nữ Bà-la-môn? Cùng là kinh điển BắcTông mà lại mâu thuẫn với nhau như thế, cho thấy được sự vô lí hay nói thẳng ralà “ngu xuẩn trí thức” của người tácgiả bịa đặt ngụy kinh.
         Kinh Vu Lan Bồn và sự tích “Mục Liên cứumẹ” ra đời trong hoàn cảnh vội vàng vì để đối phó với nền tư tưởng Trung Hoamang đậm chất “trung chính hiếu đạo” của Nho giáo. Đương thời những bậc sĩ phuNho giáo đã từng kết tội đạo Phật qua bốn điểm sau đây:
         (1) “Ăn hại tốn cơm”: cho rằng tăng niPhật giáo không làm ăn sản xuất gì cả mà chỉ hưởng thụ phẩm vật cúng dường cũngnhư xây cất chùa chiền bởi tín đồ Phật tử.
         (2) “Hủy bỏ râu tóc, bỏ nhà xuất gia,không tròn chữ hiếu”: người Tàu quan niệm râu tóc là cha mẹ ban cho, cắt râu cạotóc là bất hiếu; vả lại con cái ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, đằng này lại bỏ nhàđi tu hành khiến cha mẹ bơ vơ thương nhớ là nghịch đạo.
         (3) “Phí lạm của công, hao tổn nhân lực”:cho rằng chùa chiền và tăng chúng càng phồn thịnh, đất đai và tiền của cứ dồncho chùa sẽ làm khánh kiệt quốc lực, đã vậy người xuất gia nhiều thì không sinhsản được, tổn mất nguồn nhân lực cho đất nước.
         (4) “Vô ích trị quốc, yếm thế không tưởng”:bảo rằng đạo Phật với mớ giáo lí toàn bàn về chuyện siêu hình, chuyện tu hành,giác ngộ, chẳng đả động gì đến thế tục để cai trị cho quốc thái dân an. Kết tộitriết lí nhà Phật gây ra sự chán đời, nhàm lìa thế tục, mơ mộng hão huyền vềchuyện kiếp sau, chuyện luân hồi nhân quả hay giải thoát Niết-bàn mà không thểkiểm chứng thực tế hiện tại được.
         Để đối phó với 4 lời kết tội này, đạoPhật đã phải xoay sở tìm tòi cách này pháp kia để phản biện lại, thậm chí nếutìm không ra trong giáo lí gốc thì sẵn sàng phải bịa ra giáo lí mới để phân bualại. Chỉ riêng với điểm thứ 2 là về trung hiếu, đạo Phật đành dựng ra câu chuyệnvề Mục Liên Thanh Đề cũng như “phịa” ra Kinh Vu Lan Bồn để khẳng định rằng đạolí của mình có nói đến trung hiếu, đó là cứu cha mẹ thoát khỏi khổ thú ác đạo.
         Ở trên đã vạch trần sai lầm về cái gọilà “Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát” mà quý vị thường hay gắn thêm chữ “Nam mô” ởđằng trước. Vậy thì trong Kinh điển chính thống nguyên gốc về Mục Kiền Liên thậtsự là thế nào? Ai mới xứng đáng gọi là “Đại Hiếu”?
         Ngài Mục Kiền Liên là một trong những đạiđệ tử của Đức Phật, gọi là “thần thông đệ nhất”. Tuy là bậc thần thông có nhiềutài phép nhưng tuyệt nhiên cũng không thể chiến thắng khỏi quả báo của quy luậtnhân quả. Về cuối đời ngài có một cái chết mà nói theo thế tục là rất thươngtâm. Vào một thuở nọ, những đạo sĩ phái Nagantha muốn giết ngài Mục Kiền Liênnhưng họ không muốn trực tiếp ra tay vì sợ tổn hại danh tiếng và phước nghiệp.Thế là chúng mướn một số tên cướp giết người để hạ sát Trường Lão lúc bấy giờđang ngụ tại xứ Hắc Nham gần thành Vương xá . Bọn sát nhân bao vây tịnh xá ,nhung lần đầu tôn giả dùng phép thần thông thoát qua lỗ khoá và lần thứ hai,tôn giả trỗ lên nóc nhà thoát được . Cứ thế suốt hai tháng trường bọn chúngkhông thể bắt được tôn giả. Đến tháng thứ ba, khi bọn giết người bao vây tu việnmột lần nữa , Tôn giả nhớ lại ác nghiệp còn phỉa trả do mình đã sai phạm trongtiền kiếp nên không dùng thần thông để thoát . Vì vậy ngài bị bắt và bọn sátnhân đánh đập ngài cho đến khi bao nhiêu xương cốt đều nát bấy. Sau đó chúng bỏthi thể của tôn giả vào bụi rậm , nghĩ rằng ngài đã chết . Tôn giả dùng sức mạnhThiền định để hồi sinh và đến yết kiến Đức Phật tại tinh xá Kỳ Viên.
         Khi tôn giả bạch Phật là ngài sẽ nhậpVô-dư Niết-bàn tại Hắc Nham, gần thành Vương Xá , Đức Phật nói với tôn giả nênra đi sau khi thuyết pháp với hội chúng Tỳ kheo vì đây là lần cuối cùng ngià gặphọ . Thế là tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên thuyết pháp và lên đường sau khi đảnh lễĐức Phật bảy lần . 
         Tin Tôn giả qua đời trong tay bọn sátnhân tức tốc lan truyền nhanh chóng. Vua A Xà Thế ra lệnh cho quân lính truytìm tóm bắt bọn thủ phạm. Bọn sát nhân bị bắt và bị thiêu sống. Các vị Tỳ kheorất đau buồn cho cái chết của tôn giả và không hiểu tại sao một nhân vật nhưtôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên mà lại chết trong tay bọn sát nhân. Đức Phật bảocác chư vị ấy: "Này các Tỳ kheo ! Xét theo kiếp này Mục Kiền Liên đã sốngcuộc đời đạo hạnh thì lẽ ra ông ta không gặp phaỉ một cái chết như thế. Nhưngtrong một tiền kiếp, Ông ta đã phạm một tội ác lớn đối với cha mẹ mình là hai kẻmù loà. Lúc đầu, ông ta là một người con rất hiếu nhưng sau khi lập gia đình, vợông ta bắt đầu sinh chuyện, đề nghị ông tống khứ cha mẹ của ông đi. Ông ta lấyxe ngựa chở cha mẹ mù loà của mình vào môt khu rừng và tại đây, ông ta đập chếthai người, giả cách làm hai ông bà tin rằng một tên cướp đã đánh đập họ. Vì ácnghiệp đó nên ông ta chịu khổ lâu ngày là kiếp chót, ông ta đã bị chết trongtay bọn sát nhân .Bấy giờ Đức Phật xướng kệ như sau:
                                                “Dùng hung khí trừng phạt 
                                                Ngườihiền thiện từ tâm . 
                                                Sẽbị nghiệp hành thân
                                                Mộttrong mười oan nghiệt”.
                                                                        [KệPháp Cú 137].
         Như vậyngài Mục Kiền Liên không phải là “Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát” mà nhiều ngườilầm tưởng, ngài chỉ là một “Đại Thần Thông Mục Kiền Liên Đại Thanh Văn” mà thôi.Ngài viên tịch bởi cái chết bị bằm nát do phải trả một oan nghiệp bất hiếutrong tiền kiếp, chứ chẳng hề có xuống địa ngục cứu một bà mẹ nào gọi là ThanhĐề cả.
         Gươnghiếu thảo đáng ra là một người đệ tử khác rất nổi tiếng của Đức Phật, đó làngàiSāriputta (Xá Lợi Phất). Tôn giảXá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài,bà Xá Lợi, vốn thông minh và có biệt tài hùng biện hằng mong con trai của mìnhsẽ trở thành một đại luận sư lỗi lạc bậc nhất đương thời. Ấy thế mà lớn lên, XáLợi Phất lại rủ bỏ tất cả để đi theo Sa-môn Gotama, trở thành trợ thủ đắc lực củaThế Tôn, lại dùng tài trí của mình quy thuận rất nhiều Bà-la-môn theo Phậtgiáo. Mặc dù rất thương và tôn trọng quyết định của con nhưng sự kiện Xá Lợi Phấtxuất gia đầu Phật đã khiến bà Xá Lợi thất vọng, đau buồn và không hề có thiện cảmvới Tăng đoàn.
         Khi xuấtgia chứng quả A la hán rồi, Tôn giả Xá Lợi Phất biết rất rõ điều ấy. Ngài muốntrở về để thức tỉnh và chuyển hóa mẹ lắm, nhưng vì nhân duyên chưa chín muồinên đành phải chờ. Khi được tin Xá Lợi Phất cùng tùy tùng hơn 500 vị Tỳ kheo sắptrở về nhà, bà Xá Lợi vẫn hờ hững. Cuộc trùng phùng của tình mẫu tử sau hơn mấymươi năm xa cách chưa được bao lâu thì Tôn giả Xá Lợi Phất ngã bệnh. Ngài đauthật hay thị hiện thì ta không thể biết nhưng bà Xá Lợi thì tỏ ra rất lo lắng,bồn chồn. Bà Xá Lợi lò dò đến thăm con thì bỗng lóa mắt như lạc vào thế giới củathiên thần. Trong căn phòng của Tôn giả Xá Lợi Phất ngập tràn ánh sáng vơi vô sốchư thiên hào quang rực rỡ vây quanh. Không chỉ một mà nhiều đoàn thiên thần đếnthăm Tôn giả Xá Lợi Phất làm cho bà Xá Lợi ngạc nhiên và mừng rỡ vô cùng. Đâylà lần đầu tiên trong cuộc đời bà được chứng kiến cảnh huy hoàng, tráng lệ ấy. Bàta ngạc nhiên đến cùng cực khi biết các phái đoàn thiên thần đến thăm con bà lầnlượt là Tứ Đại Thiên Vương, Đế Thích và cả Đại Phạm thiên, đấng toàn năng mà bàhằng quy kính, tôn thờ. Một thoáng suy tư, bà Xá Lợi nghĩ rằng nếu con của tamà có oai lực lớn đến trời người đều cung kính như vậy thì Đấng Thế Tôn oai lựcvĩ đại đến dường nào. Nghĩ đến đây, bà Xá Lợi cảm nhận một niềm hỷ lạc tràn ngậpchâu thân, tinh thần thư thái vô cùng, niềm tịnh tín nơi Thế Tôn trong bà bừngphát. Nhân đó, Tôn giả Xá Lợi Phất tuần tự giải thích và xưng tán công đức siêutuyệt của Thế Tôn qua các phương diện giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoáttri kiến. Thật diệu kỳ, khi pháp thoại vừa chấm dứt thì bà Xá Lợi thành tựuPháp nhãn thanh tịnh, tin tưởng bất động vào Thế Tôn, chứng đắc Sơ quả Tu-đà-hoàn.
         Thế làTôn giả Xá Lợi Phất đã làm tròn bổn phận hiếu đạo của người xuất gia. Tuy khôngsớm thăm tối viếng, cung phụng ngon ngọt… nhưng đã giúp mẹ thoát được lưới mê,bước vào dòng Thánh, phúc lạc muôn đời. Không chỉ hóa độ người mẹ trong hiện tại,đối với các bậc sinh thành trong quá khứ, Tôn giả Xá Lợi Phất cũng viên thànhhiếu đạo. Ngài đã từng độ thoát cho bà mẹ kiếp quá khứ của mình bị đọa ngạ quỷ,đây là y cứ theo “Ngạ quỷ sự” trong TiểuBộ Kinh.
         Trongđời quá khứ có một phú gia ở thành Ba La Nại thường phát tâm cúng dường rộng lớnđến các Sa môn, Bà la môn và bố thí rộng rãi cho những người nghèo khó. Rồi mộthôm, phú gia bận đi làm ăn xa, trước khi đi dặn dò vợ chu toàn công việc bố thícúng dường. Ông đi rồi, người vợ không những chênh mảng trách nhiệm cúng dườngđược chồng giao phó mà còn biểu lộ thái độ khinh khi, sỉ nhục những người nghèokhổ. Vì tham lam bỏn sẻn, tạo ác nghiệp nặng nề nên khi từ trần bà tái sanh làmngạ quỷ chịu nhiều khốn khổ. Nhớ lại những công đức lành mà bà đã làm trong quákhứ, bà mong muốn được gặp Tôn giả Xá Lợi Phất liền tìm đến thành Vương Xá.
         Khi đếngần tịnh thất của Tôn giả Xá Lợi Phất, nữ quỷ bị các hộ pháp thiện thần chặn lại,không cho vào. Nữ quỷ nói rằng trong năm kiếp về trước, ta là mẹ của Tôn giả XáLợi Phất, hãy cho phép ta vào thăm ngài. Khi thấy nữ quỷ, ngài Xá Lợi Phất liềnhỏi: Vì sao hình dung người tiều tụy, còn da bọc xương, khổ não đến thế này? Nữquỷ thưa rằng: Trong năm kiếp về trước tôi đã từng làm mẹ của Tôn giả. Nhưng vìcác ác nghiệp đã gây tạo nên giờ đây bị đọa vào cảnh khổ, không nhà cửa, khôngcó đủ đồ ăn thức uống, luôn bị đói khát hanh hạ… Xin Tôn giả rủ lòng thương, vìtôi mà phát tâm bố thí, cúng dường để thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ. Ngày hômsau, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng các Tỷ kheo đến gặp vua Tần Bà Sa La (Bimbisāra)trình bày sự việc, nhờ trợ duyên và được đức vua chấp thuận. Khi lễ vật chuẩn bịxong, Tôn giả Xá Lợi Phất thành tâm dâng cúng lên Đức Phật và chư Tăng khắp mườiphương rồi hồi hướng công đức cho nữ quỷ.
         Nhờphước báo ấy mà nữ quỷ mẹ Tôn giả Xá Lợi Phất trong quá khứ được thoát kiếp ngạquỷ, sanh lên cõi trời. Và vị thiên nữ với dung sắc thù thắng, xiêm y rực rỡ đãxuống trần gặp Tôn giả Mục Kiền Liên, nói rõ nhân duyên thoát khỏi cảnh khổ đồngthời bày tỏ niềm tri ân vô hạn đến Tôn giả Xá Lợi Phất.
         Quacâu chuyện này quý vị Phật tử Bắc Tông nên suy ngẫm, danh từ “Bồ Tát Đại Hiếu”đáng nên trao cho vị nào?
        
        Facebook: Vô Minh
               

   [1] Trích theo bản dịch của Quang Đăng từ Hán sang Việt nằm ở“Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh”.

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

NHỮNG NGƯỜI CON HIẾU THẢO TRONG KINH ĐIỂN


Có mặt trên thế gian này, được trưởng thành với đời, có công danh với xã hội, chắc chắn ai trong chúng ta cùng đều phải mang nặng một món nợ, đó là món nợ ân tình đối với hai bậc phụ mẫu. Mẹ sinh ra ta, cha nuôi ta lớn khôn, dạy dỗ từng bước đi đầu tiên, những tiếng nói bập bẹ cho đến cách cư xử ở đời và rồi cho ta một hành trang vững chải với cuộc sống. chỉ bấy nhiêu thôi, nhưng ân đức của cha mẹ vô cùng to lớn và vô cùng tận.
Mùa Vu Lan, duy chỉ có một ngày, một thời gian ngắn để tưởng nhớ ân đức cha mẹ nhưng trách nhiệm của người con hiếu thảo là cả cuộc đời phải biết phụng dưỡng và đáp đền công đức của mẹ cha. Mà làm sao có thể đền trả được món nợ ân tình cao sâu vời vợi như thế được chứ. Đức Phật đưa ra hình ảnh người con cõng cha mẹ hai bên vai đi giáp vòng hết quả địa cầu, cung phụng các món ngon vật lạ suốt đời thì cũng không thể đền đáp được ân cha nghĩa mẹ[1]. Theo Phật giáo, người con có hiếu là ngoài việc phụng dưỡng, chăm sóc, làm việc thay thế cha mẹ, làm phước hồi hướng khi cha mẹ quá vãng[2] thì người con còn một cách báo hiếu cao quý nhất là hướng cha mẹ đến với thiện pháp, có lòng tin với Tam bảo, có chánh kiến và hướng cha mẹ đến với sự giải thoát[3] chính là cách báo hiếu trọn vẹn và ý nghĩa nhất.
Phụng dưỡng cha mẹ là một trong những bổn phận quan trọng của con cái. Không chỉ phụng dưỡng, người con hiếu còn phải thuận thảo, thương yêu và kính trọng cha mẹ với tất cả chân thành. Phước báo phụng dưỡng cha mẹ, theo tuệ giác Thế Tôn, hiện tại được người đời tôn vinh ca ngợi và tương lai được sanh về Thiên giới hạnh phúc an vui.
Người nào theo thường pháp
Nuôi dưỡng mẹ và cha
Chính do công hạnh này
Đối với cha với mẹ
Nhờ vậy bậc Hiền Thánh
Trong đời này tán thán
Sau khi chết được sanh
Hưởng an lạc chư Thiên.[4]
Tuy nhiên, điều quan trọng mà Thế Tôn muốn nhấn mạnh ở đây là những phẩm vật phụng dưỡng, kính thờ cha mẹ phải trong sạch, là thành quả sự lao động chân chính theo thường pháp. Nếu những thành tựu vật chất trong hiện tại là kết quả của việc làm ăn phi pháp như tranh đoạt, trộm cướp, lừa gạt, trốn thuế, hối lộ, tham nhũng rồi đem phụng dưỡng cha mẹ thì chẳng những không được phước mà cha mẹ có thể bị liên lụy theo.
Sanh con ra, cha mẹ nào cũng muốn con được nên người, trưởng thành với đời; ấy vậy mà đâu phải con cái nào cũng có hiếu với cha mẹ. theo đức phật nhận định, những người con có hiếu với cha mẹ ít hơn những người không có hiếu, cũng ví như đất trên đầu móng tay của như lai so sánh với đất trên quả địa cầu này vậy[5]. Và hôm nay, hòa mình cùng với không khí của những người con hiếu thảo hướng về hai đấng sanh thành, trong bài viết này xin nêu lên một vài tấm gương hiếu hạnh "vĩ đại" để chúng ta lấy đó làm kim chỉ nam trong cuộc sống và là một bài học cho những người con chí hiếu. Và đây là những người con tiêu biểu nhất được ghi lại trong kinh điển và lịch sử.
1. Đức Thế Tôn.

Sanh ra và lớn lên vẫn như bao người con khác, thái tử Siddhattha là hoàng nam duy nhất của đức vua Suddhodana và hoàng hậu Sirī Mahāmāyā, trị vì kinh thành Kapilavatthu của tộc Sakya. Bảy ngày sau khi hạ sanh thái tử, hoàng hậu băng hà và người em gái Mahāpajāpatī Gotamī được phong làm hoàng hậu mang trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc cho thái tử. Đến năm 16 tuổi, thái tử sánh duyên cùng công chúa Yasodharā xinh đẹp. Đến ngày được làm cha, năm 29 tuổi, và cũng là ngày thái tử rời bỏ cung điện, ngai vàng cùng vợ đẹp và đứa con thơ chưa nhìn mặt để đi tầm cầu đạo giải thoát. Với người đời, có lẽ người ta không hiểu sẽ cho rằng thái tử là một người con vô tâm, một người chồng, một người cha vô trách nhiệm. Nhưng không phải vậy. Thái tử ra đi, từ bỏ hạnh phúc cá nhân tầm thường để đi tầm cầu một con đường giải thoát, cao quý hơn, đó gọi là Thánh Cầu[6]. Sau sáu năm hành đạo để tìm con đường thoát khổ, cuối cùng bồ-tát cũng đã chứng đạt quả vị Phật Chánh Đẳng Giác dưới cội Bồ-đề vào ngày trăng tròn tháng Vesākha.
Mục đích đã đạt được, cái cần tìm đã tìm thấy, đức Phật bắt đầu những ngày tháng du hành đây đó khắp các nẻo đường Bắc Ấn để going lên hồi trống bất tử để cho những ai hữu duyên được nghe và chứng nghiệm Pháp giải thoát. Và trong những chuyến hành trình đó, Ngài đã trở về lại quê hương Kapilavatthu để tế độ quyến thuộc.
Trong thời gian ở tại quê nhà, vì không có ai thỉnh Ngài trai tăng cúng dường nên Thế Tôn cùng với đoàn Tỳ-khưu tùy tùng đi khất thực trong kinh thành. Vua cha nghe tin dân chúng xôn xao vì chuyện con vua đi xin ăn ngoài thành nên nhà vua đến phàn nàn với Thế Tôn. Đức Phật cho biết rằng Ngài chỉ giữ đúng theo truyền thống dòng dõi của chư Phật là đi khất thực từng nhà chư đâu làm mất thể diện dòng dõi vua chúa của vua cha. Sau thời pháp thoại, nhà vua đắc quả Tu–đà-huờn[7]. Sau đó vua cha thỉnh đức Phật cùng chư Tỳ-khưu theo Ngài vô cung thọ trai. Tại đây, tất cả mọi người đều đến đảnh lễ Ngài, ngoại trừ công chúa Rāhulamātā. Sau khi thọ trai, Thế Tôn đã thuyết thời pháp đệ khích lệ đến vua cha và di mẫu Mahāpajāpatī Gotamī. Cuối thời pháp, di mẫu đắc quả Tu–đà-huờn còn vua Sudddhodana đắc Thánh Tư-đà-hàm[8].
Và vào mùa an cư thứ năm của đức Thế Tôn, vua Suddhoadana lâm trọng bệnh, Thế Tôn đã trở lại quê hương lần thứ hai để tế độ vua cha đắc được thánh quả A-la-hán khi nằm trên giường bệnh trước khi thăng hà[9]. Cũng vào năm này, Hoàng hậu Mahāpajāpatī Gotamī cùng đi với 500 nữ nhân dòng Sakya đến Nigrodhārāma viếng Phật và bạch xin Ngài cho phép nữ nhân gia nhập Tăng đoàn. Bà xin ba lần và Phật từ khước ba lần rồi Ngài trở về Vesāli. Dầu không được phép, mgọi người vẫn xuống tóc, đắp y vàng rồi đi theo Ngài hướng về Vesāli. Sau cùng Tôn giả Ānanda vào bạch xin đức Thế Tôn cho phép thành lập Ni đoàn và được đức Phật chập thuận nếu như nữ nhân chấp nhận thọ trì tám kính pháp[10].
Vào mùa an cư thứ 7 của Thế Tôn, Ngài đã an cư trên cõi trời Tāvatiṃsā[11]ba tháng mùa mưa và thuyết giảng Abhidhamma cho mẫu hậu của mình, lúc đó đã là một vị nam thiên tử. Sau thời pháp, vị thiên tử chứng đắc được Thánh quả Dự-lưu.
Như vậy, chúng ta thấy Thế Tôn đã "nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy"[12]. Chính những lời dạy của Ngài và những hành động của Thế Tôn đi đôi với nhau là những bài học thiết thực nhất khiến bao người phải quy ngưỡng. Vai trò là một vị Đạo sư vĩ đại lúc bất giờ, biết bao người quy phục, biết bao vua chúa quỳ lạy và hàng chư thiên khắp các cõi lễ bái nhưng Ngài cũng không quên tế độ quyến thuộc của mình. Đúng như câu nói "Nhất nhân đắc đạo, cửu huyền siêu thăng" quả thật không sai. Chính vì thế, Ngài đáng là một bậc vĩ nhân chí hiếu đáng là tấm gương sáng cho những người con.
2. Tôn giả Sāriputta.

Cuộc đời của Tôn giả Sāriputta, bậc Tướng quân Chánh Pháp, cả cuộc đời Ngài là vầng sử rạng ngời đáng cho hang hậu học kính nể và nương theo tu học. Một câu chuyện ghi lại, Ngài đã giúp tế độ cho người thân mẫu của Ngài vào một kiếp quá khứ xa xưa, như là đáp trả món ân tình đã vay mượn từ thuở nào.
Một thuở nọ, Tôn giả Sāriputta, Tôn giả Mahāmoggallāna, Tôn giả Anuruddha và Tôn giả Kappina trú tại một khu rừng không xa Vương Xá thành lắm. Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta đang đi kinh hành trong đêm, có một nữ dạ xoa muốn đi đến yết kiến với Tôn giả nhưng các vị chư thiên bảo vệ tịnh xá không cho dạ xọa vào bên trong. Nữ dạ xoa nói với các chư thiên rằng : mình là Mẹ của Tôn giả cách đây bốn kiếp về trước[13] nên xin các vị ấy cho vào trong để thăm viếng ngài Tôn giả. Chư thiên nghe vậy cho nàng vào. Khi đã vào, nàng dạ xoa ấy đã hiện hình ra trước mặt Tôn giả ngay tại cuối con đường kinh hành. Nàng thuật lại câu chuyện quá khứ của mình, do đã tạo ác nghiệp mắng chửi, nguyền rủa các vị xuất gia nên phải chịu cảnh khổ như thế này. Dạ xoa cầu xin Tôn giả bố thí cúng dường vật thực và hồi hướng phước đến cho mình để thoát khỏi sự đau khổ.
Sáng hôm sau, nhân khi đi khất thực trong thành Vương Xá, các ngài đến gặp vua Bình-sa, và Tôn giả Mahāmoggallāna thuật lại câu chuyện ấy cho vua nghe. Nhà vua hoan hỷ phát tâm trong sạch hứa sẽ giúp Tôn giả Sāriputta. Vua truyền lệnh cho các quan dựng bốn tịnh thất trong khu rừng ngoại thành, và sửa soạn vật thực, đồ ăn, thức uống và y phục. Sau đó, nhà vua chuyển toàn bộ những thứ ấy đến Tôn giả Sāriputta. Nhân danh Mẹ của mình, Tôn giả Sāriputta bố thí cúng dường đến Đức Phật và Tăng đoàn, rồi hồi hướng công đức phước báu đến cho bà. Nhờ đó, bà được tái sinh vào cõi Trời Phạm Thiên[14].
Đó là món nợ còn thiếu trong quá khứ xa xưa, còn đối với món nợ ân tình của Ngài trong kiếp này, trước khi viên tịch Níp-bàn, Tôn giả Sāriputta đã thực hiện một chuyến du hành cuối cùng trong vòng luân hồi để Ngài trở lại quê hương, nơi ngôi làng cũ, nơi chăn nhà mà Ngài đã sinh ra để tế độ thân mẫu.
Thân mẫu của ngài tên là Rūpasārī, là một tín đồ thuần thành của Bà-la-môn giáo, mặc dù bảy người con[15] yêu quý của bà đều xuất gia trong Giáo pháp của đức Phật và đều đắc thánh quả A-la-hán nhưng bà không có niềm tin nơi Tam Bảo và cũng rất không thích chư Tăng. Vì bà nghĩ rằng, chính đức Phật và những vị đệ tử Phật đã lôi kéo những đứa con trai, con gái bỏ bà để đi xuất gia[16].
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta tuổi đã cao, sức khỏe đã ngày càng suy kiệt, Ngài biết rằng nhân duyên của mình sắp mãn nên đã xin phép đức Phật về quê hương tiếp độ mẫu thân và viên tịch tại nơi đó.
Tôn giả từ giã đại chúng và dẫn theo 500 Tỳ-kheo về quê hương mình. Trên đường về gần đến ngôi làng thuở xưa của mình, Tôn giả gặp đứa cháu trai và bảo người cháu về thông báo với Mẹ Ngài rằng: Tôn giả Sāriputtađã trở về và xin ở lại căn phòng thuở xưa lúc Ngài chào đời. Người cháu vô cùng mừng rỡ, vội vàng chạy về báo tin. Dù rằng bà Sārī rất ghét Tăng đoàn, rất giận người con cả, nhưng lòng yêu thương con không bao giờ vơi cạn, bà đổi giận làm vui để tiếp đón chư Tăng. Tối đêm ấy, ở ngay căn phòng thuở xưa lúc chào đời, Tôn giả đã trở bệnh kiết lỵ. Lúc bấy giờ, có vị thị giả đang hầu hạ, cứ vào ra với những cái bô trên tay. Bà sārī rất quan tâm đến người con cả, nhưng vẫn còn đứng ở bên ngoài phòng của Tôn giả quan sát.
Khi ấy, các vị thiên vương, thiên chủ,phạm thiên lần lượt hiện vào phòng để kính lễ tôn giả, hào quang của các vị ấy làm cho cả căn phòng và khu vườn nơi Tôn giảSāriputta đang ở sáng rực hào quang. Sau khi các vị Thiên chủ đã ra đi, bà vội vàng vào phòng của Tôn giả để hỏi thăm về những vị trời ấy. Tôn giả đã từ tốn giải thích đó là những vị trời nào, sự hộ pháp của họ ra sao, đã hầu hạ đức Phật trong lúc đản sanh, sự thưa thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân lúc mới thành đạo như thế nào, v.v… Nghe xong, vô cùng kính phục, bà không ngờ người con của mình cao cả đến độ các vị trời cao quí, ngay cả đến Đại phạm thiên, Brahma (vị trời cao cả nhất, tối thượng nhất mà cả dòng tộc bà cũng như bản thân bà luôn kính ngưỡng phụng thờ, cầu nguyện hàng trăm năm nay) lại chỉ là người hầu của con mình, là đệ tử của đức Thế Tôn. Trong tâm bà phát khởi tín tâm, suy nghĩ: “Nếu oai lực của người con trai mình như thế thì oai lực vô biên của đấng Bổn sư của con mình còn to lớn biết chừng nào!”
Bằng sự kính ngưỡng cao cả chưa từng có, đồng thời nghe xong bài pháp ngắn về công đức Phật, Pháp, Tăng của Tôn giả, toàn thể châu thân bà Sàri rúng động, niềm tin tối thượng về đức Phật, về người con vĩ đại của mình, cũng như về Tam Bảo. Niềm hoan hỷ, an lạc bất tận phát sinh đến từng chân tơ kẻ tóc, bà đã chứng đắc được quả vị Tu-đà-hoàn, chính thức bước vào dòng Thánh, chắc chắn sẽ đạt đến giải thoát, an lạc.
Quá xúc động, bà Sàri đã thốt lên với Tôn giả: : “Này người con đáng kính của Mẹ! Này ngài Upatissa, tại sao trong suốt những năm qua con không ban bố cho Mẹ một sự hiểu biết bất tử này?“
Khi biết thân mẫu của mình đã đạt được thánh trí, ngài bèn nghĩ: “Giờ thì ta đã đền đáp xong công ơn sinh thành của người Mẹ ta rồi, người thiếu phụ Bà-la-môn mà trước đây dân làng ai cũng tôn kính và đều gọi làRūpasārī. Chính nhờ bà, ta đã nên người. Pháp bảo mà ta vừa giảng cho bà thế là đủ”.
Đáp trả xong món nợ ân tình ngày nào, trách nhiệm của Ngài đã xong, phận sự cũng chẳng còn gì để làm, Ngài đã viên tịch Níp-bàn không còn dư sót chút đau khổ nào. Ngày đó nhằm ngày trăng tròn tháng Kattika (khoảng tháng 10 âm lịch).
Toàn bộ cuộc đời Ngài đã cống hiến hết cho sự nghiệp hoằng pháp, là bậc Tướng quân Chánh Pháp, bậc Thượng thủ Thinh văn bên tay phải của đức Thế Tôn, vậy mà đến phút cuối cuộc đời, Ngài vẫn không quên báo đáp thâm ân của đấng sinh thành.
3. Tôn giả Rāhula.

Trong đêm ra đi vĩ đại nhất trong lịch sử loài người của Bồ-tát Siddhattha, công chúa Yasodharā đã gạt lệ nhớ thương và đơn thân nuôi dưỡng Rāhula ròng rã bảy năm trường trong cô đơn, khắc khoải. Với tình thương vô hạn của mẹ và sự giáo dưỡng chu toàn của ông nội Suddodhana theo phương cách của một hoàng nam mang dòng máu Sakya, Rāhula bẩm thụ một khí chất đặc biệt so với những đứa trẻ đồng trang lứa.
Mặc dù chưa hình dung ra dáng vẻ của cha, nhưng khi được mẹ bảo rằng, bậc dẫn dầu đoàn Sa-môn hôm ấy chính là người cha khả kính đã biền biệt bao năm qua, Rāhula đã vâng theo lời mẹ dạy một cách tuyệt đối và chạy đến cầu xin Đức Thế Tôn: hãy ban cho con phần thừa kế[17].
Khi được đức Thế Tôn hứa khả và huấn thị Tôn giả Sāriputta đưa về tịnh xá để làm lễ xuất gia, Rāhula cũng tùy thuận nghe theo mà không hề có một chút phản kháng. Do lòng từ vô hạn của đức Thế Tôn nên Rāhula cảm thấy bóng che của Ngài thật an lạc, và đã an tâm đi theo Ngài, dù chỉ lần đầu gặp gỡ. 
Từ ý thức chấp hành lời dạy của mẹ, của người lớn từ thuở bé, nên khi được sống chung với tập thể những người xuất gia, Rāhula luôn vâng giữ những điều khuyên răn của các bậc trưởng thượng, mà ở đây là việc vâng giữ những giới điều do Phật chế định ra.
Một lần nọ, bị những vị khách tăng lớn tuổi chiếm dụng chỗ ngủ của mình, Sa-di Rāhula không vì thế mà buồn lòng, bực bội, và đã an giấc qua đêm trong nhà vệ sinh của Đức Phật[18]. Mãi đến khi trời gần sáng, Đức Thế Tôn cần sử dụng nhà vệ sinh mới phát hiện ra Sa-di Rāhula nằm ngủ còng queo trên nền đất lạnh. Chứng kiến cảnh tượng đó, Đức Thế Tôn đã chỉnh lý bổ sung những thiết định giới luật đã ban hành trước đó. Không ỷ lại tình thống thuộc, thân quen, tuân giữ nghiêm túc những quy định về giới luật, tự chủ và giản đơn trong nếp sống, sinh hoạt của mình, là đặc thù riêng có của nhân cách Sa-di trẻ tuổi Rāhula.
Đức Phật đã khéo dẫn dụ hình ảnh thau nước bẩn và cái gương soi để giáo hóa Rāhula. Một thau nước bẩn chỉ có thể đổ đi và không có thể dùng vào được việc gì; người nói dối cũng vậy[19]. Cái gương soi phản ảnh lại tất cả những hành động, dung nghi của mình. Những điều không tốt thì nên tránh xa và những điều thiện pháp thì hãy nỗ lực thực hiện. Những nỗ lực của người cha - Đức Phật - đã được đền đáp, vì cuối cùng, Sa-di Rāhula đã xứng đáng là một vị đệ tử tối thắng về hạnh hiếu học[20].
Nỗ lực cần cầu học hỏi của Rāhula rất mạnh mẽ, đôi khi vì ham học mà quên cả việc khất thực thức ăn. Kinh điển ghi lại rằng, một sáng nọ từ tinh xá Jetavana, Rāhula theo chân Đức Thế Tôn vào kinh thành Sāvatthi khất thực, đang trên đường đi, Đức Thế Tôn đã tùy thuận nhân duyên nên đã có bài thuyết giảng về giáo lý Vô ngã. 
 Bài thuyết giảng đã thu hút Rāhula chăm chú lắng nghe. Sau khi nghe xong, Rāhula quyết từ bỏ chuyến đi khất thực mà trở về tinh xá với bụng đói meo, để kịp thời quán niệm về pháp hành vừa được Đức Phật chỉ dạy. Nhờ sự tinh cần đó, Rāhula chứng đắc A-la-hán khi tuổi còn rất trẻ[21]. Và cũng nhờ đắc Thánh quả rất sớm nên ngay cả ma vương Vasavattī cũng không hù dọa được Tôn giả Rāhula[22].
Với tự thân, Rāhula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động. 
Một lần Rāhula đến thăm thân mẫu là Tỳ-kheo ni Bimbādevī, tên khác của Yasodharā sau khi xuất gia, thì được biết mẹ đang bị sình bụng, khó tiêu nên không ra tiếp chuyện được. Biết mẹ không khỏe nên Rāhula lo lắng vô cùng. Rāhula vào tận giường và thưa rằng,
- Mẹ phải dùng thứ gì mới khỏi được?
Bà đáp:
- Con ơi, nếu như hồi còn ở nhà thì cơn đau này thường được chữa bằng nước xoài có pha với nước đường; nhưng giờ đây, chúng ta đang sống bằng khất thực thì kiếm đâu ra thứ đó?
Vị Sa-di đáp:
- Con sẽ kiếm thứ ấy cho mẹ.
Và Rāhula ra đi. Rāhula đến xin cầu cứu Trưởng lão Sāriputta:
- Bạch thầy mẹ con đang mắc chứng sình bụng.
- Thế người phải dùng thứ gì?
- Có nước xoài ép với đường thì người mới khỏi bệnh.
- Ðược rồi, ta sẽ có, con chớ lo!
Thương đệ tử, Trưởng lão Sāriputta đã vào cung vua Kosala và có được nước ép xoài trị bệnh. Nhận được nước ép xoài từ sự trợ giúp của sư phụ Sāriputta, Rāhula khoan khoái vô cùng vì đã tìm được thuốc chữa bệnh khó tiêu cho thân mẫu[23].
Tình thương mẹ của Rāhula không dừng lại ở đó, vì trong một lần khác, bà Rāhulamātā lại bị bệnh đau bao tử, và cũng nhờ lòng hiếu thảo của Rāhula nên sư phụ Sāriputta lại một lần nữa đã gia tâm hỗ trợ, bằng cách giúp Rāhula xin bữa cơm trộn bơ tươi và cá hồng phù hợp cho bà Rāhulamātā[24]
Từ những nỗ lực của Rāhula trong việc chăm lo cho thân mẫu bằng những gì có thể, đã cho thấy rằng, hiếu thảo với cha mẹ là đạo lý cơ bản của con người, bất luận xuất gia hay tại gia. Cũng từ đây đã mở ra cho những người mang thân phận làm con, những bài học lớn về việc rèn luyện những phẩm hạnh đạo đức cơ bản.
Bữa ăn cúng dường đại diện mẫu thân của Tôn giả Sāriputta, bát nước xoài, bữa cơm bơ trộn với cá hồng của Tôn giả Rāhula đều là bắt nguồn từ tình thâm mẫu tử, nhằm đáp lại tấm ân tình cao cả của bậc làm cha làm mẹ. Dù chỉ có bấy nhiêu thôi, nhưng cái giá trị nhân văn từ những bậc long tượng của Giáo pháp khiến cho bao hàng hậu học ngưỡng phục và nương theo.
4. Những câu chuyện tiền thân:

Thế Tôn đã hướng dẫn và tiếp độ quyến thuộc một cách trọn vẹn, đem đến cho mọi người nếm được hương vị bất tử của Chánh pháp và đến khi vua cha thăng hà, chính Thế Tôn đã tự thân châm lửa trong buổi lễ trà tỳ của vua cha. Hướng cha mẹ đến với thiện pháp, còn hơn thế nữa, Thế Tôn đã đem đến cho họ được uống chính dòng sữa Giáo pháp thanh tịnh vô cùng tận[25]. Không chỉ ở trong kiếp hiện tại mà thôi, từ vô lượng kiếp trong quá khứ, khi còn là vị bồ-tát, Ngài cũng đã là một tấm gương sáng về hiếu hạnh. Ngài không từ chối bất cứ một hy sinh nào, miễn cha mẹ được sống còn và khỏe mạnh, dù phải móc mắt làm thuốc, moi tim thế mạng hoặc từ bỏ ngai vàng đế nghiệp để được sớm hôm phụng dưỡng mẹ cha...
Chuyện Lộc Vương Hoan Hỷ (Tiền thân Nandiyamiga)[26]
Thuở xưa, khi Bồ-tát sanh làm con nai chúa tên Nandiya rất hiếu thảo với cha mẹ. Vua trị vì Kosala rất thích săn bắn. Các cuộc đi săn của ông và tuỳ tùng đông đảo làm hư hao mùa màng của thần dân rất nhiều. Dân chúng cùng nhau bàn bạc kiến tạo một lâm viên, đào một hồ nước và gieo cỏ mọc lên, rồi vào rừng đuổi bắt bầy nai về để nhà vua săn hầu tránh thiệt hại cho mùa màng.
Nandiya hy sinh tính mạng của mình vì cha mẹ và trốn theo đoàn nai vô vườn. Nai trong đoàn đồng ý hy sinh từng con một cho cuộc săn bắn của nhà vua. Bầy nai chuẩn bị chờ đến phiên mình, con nào đến phiên phải đứng sang một bên, rồi họ mang nó đi khi nó đã bị bắn chết. Nandiya cứ uống nước trong hồ và ăn cỏ, nhưng chưa đến phiên mình. Mặc dù nai chúa biết rằng mình chắc chắn có thể nhảy rào trốn đi. Song vì đã thọ hưởng thức ăn nước uống đầy đủ của đức vua và việc ấy đối với nai chúa như một món nợ. Ngoài ra, nai chúa đã sống lâu nay với bầy nai này, thật không hợp lý nếu ra đi mà không làm ích lợi cho đức vua và bầy nai nữa, hoặc không chứng tỏ sức mạnh của ta. Vì vậy bồ-tát nai chúa vẫn chờ cho đến khi nào đến lượt của mình, sẽ làm lợi ích cho cả người lẫn vật rồi an vui trở về. Mặc dù nhận được tin cha mẹ đang trông ngóng con về, nhưng bồ-tát vẫn quyết ở lại theo tâm nguyện của mình.
Lúc tới phiên mình, không sợ hãi, Nandiya xuất hiện với tâm từ ái. Tâm từ ái này khiến nhà Vua không thể bắn tên được. Trái lại, vua cho Nandiya một ước nguyện và Nandiya ước nguyện cho mọi chúng sanh được an lạc. Sau đó, nhà vua bỏ đường ác và cai trị theo chánh pháp.
Chuyện Hiếu Tử Sutana (Tiền thân Sutana)[27]
Bồ-tát sanh làm con của một gia đình nghèo, tên Sutana và chăm lo phụng dưỡng cha mẹ già. Một hôm, nhà vua trị vì Benares đi săn, đến nghỉ lưng dưới gốc cây đa bên đường. Trên cây đa có Dạ xoa Makhādeva trú; Dạ xoa được phép của Thiên vương Vessavaṇa bắt ăn thịt ai đến gần trú xứ của mình. Bị bắt, nhà vua thương lượng với Dạ xoa thả ông ra để rồi mỗi ngày ông đem cống nạp cho Dạxoa một người với một dĩa cơm. Đạt được thỏa thuận, đức vua được thả ra. Về kinh thành, vua kể chuyện này lại cho quần thần nghe. Các cận thần sắp xếp để đưa những tù nhân đi nạp mạng cho Dạ xoa. Một thời gian sau, không còn phạm nhân nào để đi cống nạp nữa. Nhà vua đem một ngàn đồng tiền ra thưởng cho ai hy sinh cho Dạ xoa. Hiếu tử Sutana tình nguyện ra đi mặc dầu cha mẹ khuyên can rất nhiều. Ông ra đi với một đôi hài vàng, chiếc lọng của vua, thanh gươm và tô vàng đựng cơm. Sutana đến cây cổ thụ, dùng mũi gươm đẩy tô cơm tới chứ không đến gần. Tiếp theo hai bên nói lên những bài kệ giao tiếp với nhau và Sutana chinh phục được Dạ xoa. Sau đó ngài ra đi cùng quỷ Dạ xoa, bảo nó cầm kiếm cùng nhiều vật khác vàđến thành Ba-la-nại. Quân sĩ báo tin Sutana đã trở về cùng quỷ Dạ-xoa. Vua cùng triều thần đi ra đón Bồ-tát và làm chỗ cư trú cho quỷ Dạ-xoa tại cổng thành, rồi sai người đem cao lương mỹ vị cho nó. Xong vua vào thành, lấy trống truyền lệnh hội họp toàn dân trong thành để tuyên dương công trạng của Bồ-tát và phong ngài chức vụ thống lãnh quân đội.
Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền thân Mātuposaka)[28]
Một thời, Bồ Tát sanh làm con voi chăm sóc mẹ mù sống trên núi Caṇḍoraṇa. Một hôm, có người thợ rừng đi lạc, voi đã giúp đỡ đưa khỏi ra khu rừng. Người thợ rừng về tâu vua và được vua phái đi bắt voi. Để công đức không bị tổn hại vì phẫn nộ, voi ngoan ngoãn để bị bắt đưa về kinh thành. Voi được nghinh đón trọng thể và phong làm vương tượng.  Nhưng voi không màng ăn uống vì lo cho mẹ. Nhà vua biết voi có mẹ mù, thả voi trở về Hy Mã Lạp Sơn, rồi cho kiến tạo một thị trấn gần chỗ voi trú để tới lui phụng sự voi Bồ Tát và voi mẹ. Sau khi mẹ voi chết, voi đi thật xa đến tịnh xá Karaṇḍaka để phụng sự các trí giả trú tại đây; nhà vua cũng thường đến đó cúng dường chư vị.
Chuyện Hiếu Tử Sāma (Tiền Thân Sāma)[29]
Có chàng trai thuộc gia đình giàu có ở thành Sāvatthi, vì lòng tịnh tín nơi Tam Bảo nên chàng xin đi xuất gia. Khi xuất gia một thời gian, gia đình của vị ấy lâm vào cảnh khốn khó, cha mẹ già phải lang thang xin ăn, khi hay tin cha mẹ như vậy, sầu thương nổi lên và vị ấy buồn khóc thật nhiều, nghĩ rằng mình phải trở về gia đình để lo cho cha mẹ. Nghĩ vậy, trên đường hoàn tục để quay lại quê nhà tại Sāvatthi, Tỳ-khưu ấy đã đến Kỳ Viên để đảnh lễ Phật lần cuối, quán thấy những bất an của vị Tỳ-khưu này nên bậc Đạo Sư đã dạy, một người con đi xuất gia vẫn lo được cho cha mẹ mình. Hôm sau trên đường về, vị ấy đã gặp cha mẹ đang ngồi xin ăn bên vệ đường, không kìm lòng được và đã cúng dường hết cho cha mẹ phần thức ăn mà mình đã khất thực, hôm sau Tỳ-khưu ấy cũng phụng dưỡng cha mẹ bằng cách đó.
Việc làm này của thầy đã gây ngờ vực cho các Tỳ-khưu khác, mọi người nghĩa rằng vị ấy đã phí phạm lễ vật cúng dường và đem cho người thế tục nên đem chuyện này trình lên đức Phật. Thế Tôn cho gọi vị Tỳ-kheo trẻ đến và hỏi:
- Có phải ông đã xuất gia mà còn lấy vật cúng dường của thí chủ đem cho người thế tục không?
Vị ấy thú nhận là có. Rồi bậc Đạo Sư muốn ngợi khen việc làm của ông và nói về một việc cũ của Ngài, liền hỏi:
- Thế ông phụng dưỡng người thế tục nào đó?
- Bạch Thế Tôn, chính cha mẹ của con.
Lúc đó Thế Tôn muốn khuyến khích việc làm của ông hơn nữa, Ngài bảo ba lần:
- Tốt lành thay! Tốt lành thay! Ông đang đi con đường ngày xưa Ta đã đi qua, ngày xưa khi đi khất thực Ta cũng phụng dưỡng cha mẹ Ta.
Các vị Tỳ-kheo khi xuất gia tu hành, dù cắt ái từ thân thực hiện nếp sống viễn ly, nhưng trên phương diện đạo đức xã hội, phụ mẫu tình thâm nên vẫn phải làm tròn bổn phận đạo con. Thời Đức Phật còn tại thế, mỗi khi biết vị Tỳ-kheo nào có hiếu với cha mẹ Ngài đều tán thán, vì trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp, tiền thân của Phật cũng là hiện thân của người con đại hiếu như những câu chuyện tiền thân đã trích lược ở trên.
Chữ hiếu ở mỗi thời khác nhau, do sự khác biệt ý thức và hoàn cảnh xã hội luôn đặt sự nhận thức khác nhau về bổn phận trách nhiệm của người con phải hành xử như thế nào cho trọn tình hiếu nghĩa với cha mẹ. Chính vậy, trong buổi giao thời chữ hiếu rất hệ trọng, ngày nay kỹ nghệ thông tin bùng nổ như thác lũ, chúng ta sẽ tiếp nhận rất nhiều nguồn thông tin: Internet, truyền hình, báo, di động…trong dòng thác đó, tốt có, xấu có, sự thông tin qua lại trong gia đình từ đó ngày một giảm dần, con cái ít nhận thông tin từ cha mẹ, lơ là hiếu đạo, tình cảm xa cách.
Cuộc sống hối hả, tình người hời hợt, kẻ sống đua đòi, háo danh, lắm lúc quên đi tình cảm thiêng liêng nhất là gia đình, quên rằng mình chỉ có duy nhất một người cha và một người mẹ trên đời. Chuyện bao đời nước chảy xuôi chứ chẳng bao giờ chảy ngược, cha mẹ khổ nhọc sớm hôm tần tảo nuôi con ăn học thành tài, làm ông này, bà nọ, là chuyện thường, nhưng khi con thành tài chăm lại cha mẹ không phải là nhiều, thậm chí chuyện con làm phật lòng cha mẹ, có kẻ nghịch tử còn đánh cha chửi mẹ, chuyện đó không phải ít trên các báo hằng ngày.
Một người con có hiếu, sẽ biết phải làm gì để cha mẹ vui lòng, ngược lại bổn phận người làm cha mẹ cũng phải biết làm sao để con nên người. Khi con cái không cần biết cha mẹ thích gì, cần gì vì cái gọi là tổ ấm hạnh phúc riêng tư mà quên bẵng đi cha mẹ mình, tới tháng dấm dúi vào tay cha mẹ vài đồng như một cái máy gọi là xong trách nhiệm, đợi khi cha mẹ qua đời thì làm tang ma thật lớn, sự hiếu thuận tưởng chừng đã muộn nhưng không là chuyện hiếm thời nay.
Chúng ta dường như đang hiện hữu trong cái thời mà thước đo giá trị bị lệch về phía thực phẩm thay vì nhân phẩm, lương thực thay vì lương tâm. Cuộc sống bộn bề, hào nhoáng của thế gian khiến bao người con bị cuốn theo ma lực của tiền tài, danh vọng. Vì thế, những Ngày của Mẹ, Ngày của Cha, tinh thần của mùa Vu Lan báo hiếu như là một lời cảnh tỉnh những người con quay về với cha mẹ để giữ trọn đạo làm con sao cho phải.
Đạo Phật ra đời hơn hai ngàn năm, những gì mà Phật dạy không ngoài mục đích giúp xác lập trật tự bình đẳng và sự bình an cho xã hội loài người trên con đường đoạn tận khổ đau, trong đó đạo hiếu là căn bản. Và những gì torng nội dung bài viết dựa theo tinh thần kinh điển ghi chép lại như là một món quà dành cho những người con trong mùa Vu Lan này. Hãy quay về bên cha mẹ, vì rằng trong cuộc đời này chỉ có cha mẹ là người duy nhất chúng ta đáng phải cúng dường, tôn kính và phụng dưỡng.
Các thế nhân theo Pháp chánh chân,
Chăm nuôi cha mẹ lúc gian truân,
Chư thiên thế giới này ca tụng,
Đời kế cõi thiên hưởng phước phần.
Bhik Samādhipuñño Định Phúc



[1]A.i,62
[2]D.iii,189
[3]A.i,62
[4]S.i,181
[5]A.v,467
[6]D.i,162
[7]DhpA.iii.164
[8]JāA.i,99
[9]ThigA.141
[10]Vin.ii,255
[11]BuA.4
[12]D.ii,225
[13]Trong đời quá khứ có một phú gia ở thành Bārāṇasī thường phát âm cúng dường rộng lớn đến các Sa môn, Bà la môn và bố thí rộng rãi cho những người nghèo khó. Rồi một hôm, phú gia bận đi làm ăn xa, trước khi đi dặn dò vợ chu toàn công việc bố thí cúng dường. Ông đi rồi, người vợ không những chểnh mảng trách nhiệm cúng dường được chồng giao phó mà còn biểu lộ thái độ khinh khi sỉ nhục những người nghèo khổ. Vì tham lam bỏn sẻn, tạo ác nghiệp nặng nề nên khi từ trần bà tái sanh làm ngạ quỷ chịu nhiều khốn khổ.
[14]PvA.78
[15]Bà có bảy người con tất cả: Sāriputta, Upasena, Mahācunda, Revata Khadiravaniya, Cālā, Upacālā và Sisūpacālā.
[16]DhpA.iv,164f
[17]Vin.i,82f
[18]Vin.iii,16
[19]M.i,420
[20]A.i,24
[21]M.iii,280
[22]DhpA.iv,69f
[23]JāA.ii,392f
[24]JāA.ii.433
[25]Ap.ii,531
[26]JāA.iii,270ff
[27]JāA.iii,324ff
[28]JāA.iv,90ff
[29]JāA.vi,69ff